Bản án 04/2018/HNGĐ-ST ngày 28/12/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ G – TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 04/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 28 tháng 12 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã G xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 40/2018/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ P, sinh năm 1973.

Địa chỉ cư trú: Ấp C, phường B, quận B, Thành Phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Lê Hồng T, sinh năm 1972.

Địa chỉ cư trú: Ấp K, xã T, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 07 tháng 12 năm 2018 và tại lời khai, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ P trình bày:

- Quan hệ hôn nhân: Bà và ông T sống chung từ năm 1995, hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện, nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Bà và ông T ly thân nhau gần 05 năm nay. Lý do trong cuộc sống vợ chồng bất đồng quan điểm, cuộc sống không hạnh phúc và ông T không quan tâm cho gia đình.

- Việc nuôi con: Bà và ông T chung sống có hai người con gồm:

+ Anh Lê T, sinh ngày 04 tháng 08 năm 1996. Anh Lê T đã thành niên nên bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Anh Lê Trọng T, sinh ngày 11 tháng 05 năm 2003, hiện đang sống chung với bà P, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con và không yêu cầu ông T cấp dưỡng.

- Chia tài sản: Không có nên bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Lê Hồng T trình bày:

- Quan hệ hôn nhân: Ông T thống nhất với phần trình bày của bà P về thời gian sống chung và không đăng ký kết hôn. Nay bà P yêu cầu được ly hôn với ông, ông đồng ý.

- Việc nuôi con: Ông T thống nhất với phần trình bày và yêu cầu của bà P.

- Chia tài sản: Không có nên ông Tuấn thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết - Kiểm sát viên phát biểu:

+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự; Đối với người tham gia tố tụng chấp hành đúng pháp luật.

+ Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận bà Nguyễn Thị Mỹ P và ông Lê Hồng T là vợ chồng.

+ Về quan hệ con: Giao cháu Lê Trọng T, sinh ngày 11 tháng 05 năm 2003 cho bà Nguyễn Thị Mỹ P tiếp tục nuôi dưỡng và không cấp dưỡng, con cháu Lê T đã thành niên nên không đặt ra giải quyết.

+ Về chia tài sản: Không có nên không đặt ra để xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ P và ông Lê Hồng T vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên việc xét xử vắng mặt của họ là phù họp với quy định tịa Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Quan hệ hôn nhân: Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Mỹ P và ông Lê Hồng T có đủ điều kiện kết hôn theo quy định nhưng không có đăng ký kết hôn. Thực tế họ đã từng sống chung với nhau như vợ chồng và đã có con chung. Nay bà P có đơn yêu cầu nên theo quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình thị Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để tuyên bố không công nhận bà Nguyễn Thị Mỹ P và ông Lê Hồng T là vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3]. Việc nuôi con:

- Đối với anh Lê Trọng T, sinh ngày 11 tháng 05 năm 2003 hiện đang sống với bà P, bà P và ông T thống nhất giao anh T cho bà P tiếp tục nuôi dưỡng. Xét thấy đây là sự tự nguyện các đương sự và phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử ghi nhận: Giao cháu Lê Trọng T, sinh ngày 11 tháng 05 năm 2003 cho bà Nguyễn Thị Mỹ P được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

+ Ông Lê Hồng T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con do mình không trực tiếp tục nuôi, mà không ai được cản trở. Trong trường hợp lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

+ Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

+ Về cấp dưỡng: Do bà Nguyễn Thị Mỹ P không yêu cầu (mặc dù đã giải thích) nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

- Đối với anh Lê T, sinh ngày 04 tháng 08 năm 1996 đã thành niên nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[4]. Chia tài sản: Do bà Nguyễn Thị Mỹ P và ông Lê Hồng T thống nhất không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[5]. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã G là phù hợp nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6]. Về án phí:

- Bà Nguyễn Thị Mỹ P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không có giá ngạch là 300.000 đồng, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0012615 ngày 07 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G;

- Ông Lê Hồng T không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 14, 53, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Quan hệ hôn nhân: Không công nhận bà Nguyễn Thị Mỹ P và ông Lê Hồng T là vợ chồng.

2. Việc nuôi con:

- Giao cháu Lê Trọng T, sinh ngày 11 tháng 05 năm 2003 cho bà Nguyễn Thị Mỹ P được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

+ Ông Lê Hồng T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con do mình không trực tiếp tục nuôi, mà không ai được cản trở. Trong trường hợp lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

+ Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

+ Về cấp dưỡng: Do bà Nguyễn Thị Mỹ P không yêu cầu (mặc dù đã giải thích) nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

- Đối với anh Lê T, sinh ngày 04 tháng 08 năm 1996 đã thành niên nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

3. Chia tài sản: Do bà Nguyễn Thị Mỹ P và ông Lê Hồng T thống nhất không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

4. Về án phí:

- Bà Nguyễn Thị Mỹ P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không có giá ngạch là 300.000 đồng, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0012615 ngày 07 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G;

- Ông Lê Hồng T không phải chịu án phí.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2018/HNGĐ-ST ngày 28/12/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:04/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Giá Rai - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về