Bản án 04/2018/HNGĐ-ST ngày 24/01/2018 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 04/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/01/2018 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Ngày 24 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 709/2017/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2017 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2017/QĐST – HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2017, giữa các đương sự:

*Nguyên đơn: Ông Nguyễn Duy H - sinh năm 1987.

Địa chỉ: Khu phố 10, phường P, thành phố P, tỉnh Bình Thuận.

*Bị đơn: Bà Ninh Thị Thùy D – sinh năm: 1992.

Địa chỉ: Khu phố 02, phường X, thành phố P, tỉnh Bình Thuận.

Các bên đương sự đều có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, và trong quá trình xét xử nguyên đơn ông Nguyễn Duy H trình bày:

Ông và bà Ninh Thị Thùy D là vợ chồng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và thỏa thuận của các đương sự số 121/2017/QĐST-HNGĐ ngày 204/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận. Tại quyết định ly hôn cũng đã ghi nhận sự thỏa thuận của ông H và bà D về việc nuôi con chung là bà D được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Ngọc Kim N - sinh năm: 14/6/2015 (giới tính: Nữ) sau khi ly hôn , ông H không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Tuy nhiên sau khi ly hôn bà D đã lập gia đình khác và chuẩn bị sinh con, nên ông H làm đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung, đề nghị giao con chung Nguyễn Ngọc Kim N cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng vì các lý do sau:

- Do bà D tự ý và liên tục chuyển trường cho con (chuyển trường trong nội thành thành phố P) làm ảnh hưởng đến sức khỏe tâm sinh lý của cháu.

- Hơn nữa, bà D đang có thai và chuẩn bị sinh con nhỏ, sức khỏe không được tốt nên không đảm bảo cho việc chăm sóc bé N;

Ông còn khai: cháu N có nói với ông là bị mẹ và cha dượng bạo hành;

Việc thăm nom con chung bà D không cho ông thời gian thoải mái khi cha con gặp nhau, nhiều khi ông muốn đón về nhà chơi thời gian lâu hơn để được chơi với con nhiều hơn thì bà D không đồng ý.

- Bản thân ông hiện nay có điều kiện, có thu nhập ổn định khoảng 40 triệu /tháng nên ông có điều kiện và khả năng tài chính tốt hơn bà D trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng con chung .

Do vậy ông yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Ngọc Kim N - sinh năm: 14/6/2015 (giới tính: Nữ), ông không yêu cầu bà D cấp dưỡng nuôi con.

*Ý kiến Bị đơn – Bà Ninh Thị Thúy D về các nội dung tranh chấp trong vụ án:

Bà Ninh Thị Thùy D xác nhận bà và ông Nguyễn Duy H là vợ chồng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và thỏa thuận của các đương sự số 121/2017/QĐST-HNGĐ ngày 204/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận. Bà và ông H chỉ có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Kim N - sinh năm: 14/6/2015 (giới tính: Nữ) và bà là người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn theo thỏa thuận được Tòa án công nhận tại quyết định ;

Nay ông Nguyễn Duy H yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, bà không đồng ý để ông H trực tiếp nuôi con chung vì những lý do sau:

Con chung Nguyễn Ngọc Kim N - sinh năm: 14/6/2015 (giới tính: Nữ) hiện chưa đủ 36 tháng tuổi, cháu N lại là nữ nên việc chăm sóc cho cháu N thì bà là người mẹ sẽ phù hợp đảm bảo về mặt tâm sinh lý tốt hơn cho cháu N.

Hơn nữa thời gian qua bà vẫn chăm sóc tốt cho cháu N, cháu N vẫn được đi học vẫn phát triển bình thường, mặc dù bà đã lấy chồng khác, sắp sinh con nhỏ nhưng bà khẳng định bà đủ điều kiện về sức khỏe và tài chính kinh tế để chăm sóc và nuôi dưỡng con tốt nhất, cha dượng cháu N rất yêu thương cháu N không phân biệt đối xử con riêng của vợ, việc ông H cho rằng bà và chồng sau bạo hành cháu N là không đúng sự thật, vu khống cho bà. Việc bà lập gia đình khác và chuẩn bị sinh con không ảnh hưởng đến việc chăm sóc nuôi dưỡng cháu N. Việc bà thay đổi trường học nhiều lần là bà quan tâm đến con, khi cháu N có biểu hiện không phù hợp với trường đã học thì bà thay đổi, hiện bà lấy chồng và sinh sống tại phường Hàm Tiến nên việc chuyển trường để đảm bảo việc học hành của con là cần thiết.

Bà khẳng định: trong thời gian vợ chồng chung sống ông H có thái độ thô lỗ, xu hướng thích sử dụng bạo lực, khi ly hôn thì ông H đã từng có hành vi hăm dọa, đòi giết gia đình bà, nên bà không muốn giao con chung cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng sẽ ảnh hưởng đến tâm sinh lý của con.

Do vậy bà D không đồng ý giao con chung Nguyễn Ngọc Kim N - sinh năm: 14/6/2015 (giới tính: Nữ) cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng. Bà yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/ tháng cho đến khi cháu N trưởng thành và có khả năng lao động.

*Theo kết quả xác minh tại địa phương nơi bà Ninh Thị Thùy D đang cùng cư trú với chồng sau là ông Nguyễn Ngọc H1 tại khu phố 02, phường H, thành phố P: xác định tại địa phương không có dư luận về việc bà D và chồng sau bà D bạo hành ngược đãi con riêng của bà D.

*Tại phiên tòa Kiểm sát viên đã phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và đề xuất ý kiến về việc giải quyết nội dung vụ án như sau:

[1]Việc tuân theo thủ tục tố tụng:

-Về việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng: Thẩm phán đã xác định đúng thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách tham gia tố tụng của các đương sự theo quy định tại khoản 03 điều 28, điểm a khoản 01 Điều 35, điểm a khoản 01 điều 39, điều 48, điều 68 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015,Thẩm phán , Thư ký đã chấp hành đúng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn mở phiên tòa, tuân thủ đúng việc gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu và đã thực hiện việc cấp tống đạt văn bản tố tụng đúng theo quy định Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015; Hội đồng xét xử sơ thẩm đã tuân thủ đúng quy định về trình tự thủ tục phiên tòa sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Nguyên đơn, Bị đơn đã nộp tạm ứng án phí và chấp hành, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật.

[2] Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Xét thấy cháu Nguyễn Ngọc Kim N - sinh năm: 14/6/2015 (giới tính: Nữ) hiện chưa đủ 36 tháng tuổi, kể từ khi ông H bà D ly hôn cháu vẫn ở với mẹ và được mẹ chăm sóc nuôi dưởng tốt; Qua xác minh địa phương thì không có việc cháu bị cha dượng và mẹ ruột đánh đập;

Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 58, 81, 83 Luật HNGĐ 2014 đề nghị Hội đồng xet xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con , tiếp tục giao cháu N cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng, và buộc ông Nguyễn Duy H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000đ/tháng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên toà, căn cứ vào ý kiến của nguyên đơn, ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

* Về thủ tục tố tụng:

Theo đơn khởi kiện của ông Nguyễn Duy H tranh chấp việc thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung đối với bà Ninh Thị Thùy D cư trú tại khu phố 02 , phường X, thành phố P, tỉnh Bình Thuận. Do vậy vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thành phố Phan Thiết, theo quy định tại khoản 03 điều 28, điểm a khoản 01 điều 35, điểm a khoản 01 điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

*Về giải quyết nội dung tranh chấp trong vụ kiện:

Theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và thỏa thuận của các đương sự số 121/2017/QĐST-HNGĐ ngày 204/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận, ông Nguyễn Duy H đã thống nhất giao 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Kim N - sinh năm: 14/6/2015 (giới tính: Nữ) cho bà Ninh Thị Thùy D trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn và đã được Tòa án công nhận tại quyết định;

Nay Ông Nguyễn Duy H kiện xin thay đổi việc nuôi con chung vì cho rằng bà D đã lập gia đình khác đang có thai và chuẩn bị sinh con nhỏ nên không đảm bảo cho việc chăm sóc bé N, ông khai rằng cháu N có nói với ông là bị mẹ và cha dượng bạo hành;

Tuy nhiên bà D khẳng định việc bà đang có thai và sinh con nhỏ không ảnh hưởng gì đến tình cảm cũng như việc quan tâm chăm sóc giáo dục cháu N, bà và cha kế của cháu N hoàn toàn có thể sắp xếp được việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu N trong thời gian thai sản, bà cũng khẳng định không có việc bà và cha kế bạo hành ngược đãi cháu N;

Kết quả xác minh tại địa phương khu phố 02, phường Hàm Tiến nơi bà D cháu N cùng với chồng sau của bà N chung sống cũng đã khẳng định không có việc cháu N bị ngược đãi bạo hành;

Như vậy các căn cứ yêu cầu xin thay đổi người trực tiếp nuôi con chung của ông H là không có căn cứ.

Xét thấy sau khi ly hôn bà D đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình đối với con, rất quan tâm chăm sóc giáo dục con, cho cháu đi học, chuyển trường khi thấy cháu không thích ứng phù hợp với nơi học tập ở trường; Dưới sự chăm sóc của mẹ cháu Nguyễn Ngọc Kim N vẫn khỏe mạnh phát triển bình thường, không có chứng cứ nào thể hiện cháu N không được mẹ quan tâm chăm sóc giáo dục hoặc ngược đãi bạo hành; Chính tại phiên tòa ông H cũng xác định mặc dù bé N có nói với ông là bị mẹ và cha dượng bạo hành nhưng qua việc thăm nom ông cũng không thấy có biểu hiện nào thể hiện việc cháu N bị bạo hành; Lời khai về vấn đề này của ông tại phiên tòa cũng phù hợp với kết quả xác minh tại địa phương nơi bà D cháu N cùng với chồng sau của bà N chung sống.

Hơn nữa hiện cháu N vẫn chưa đủ 36 tháng tuổi và là bé gái nên việc bà D trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc bé không những phù hợp với quy định pháp luật mà còn phù hợp với điều kiện phát triển tâm sinh lý của cháu bé. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án bà D cũng không đồng ý giao cháu N cho ông H nuôi dưỡng;

Nguyên đơn có đặt vấn đề về khả năng tài chính thu nhập cao nên hoàn toàn có khả năng đảm bảo cuộc sống của cháu N tốt hơn bị đơn; Tuy nhiên cả hai bên đương sự đều là người kinh doanh tự do nên không đủ căn cứ để xác định bên nào có khả năng tài chính cao hơn trong việc nuôi con chung.

Tại khoản 03 điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 đã quy định “ con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom , chăm sóc , nuôi dưỡng , giáo dục con…” Tại khoản 02 điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 cũng đã quy định:

“Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:

b/ Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom , chăm sóc nuôi dưỡng , giáo dục con”.

Như vậy tại thời điểm ông H yêu cầu thay đổi nuôi con nhưng không đưa ra được chứng cứ nào thể hiện chứng minh cho việc bà D không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom , chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con; Việc Viện kiểm sát đề nghị bác đơn yêu cầu thay đổi người nuôi con của nguyên đơn cũng phù hợp quy định pháp luật và tài liệu chứng cứ trong vụ án; Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cũng không đủ căn cứ , cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H.

Bà Ninh Thị Thùy D có yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con chung nếu Tòa án giành quyền nuôi con chung với mức 2.000.000đ/tháng cho đến khi cháu N đủ 18 tuổi và có khả năng lao động; Ông H mặc dù giành quyền nuôi con chung, nhưng nếu Tòa án giao cháu N cho bà D nuôi ông vẫn đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung với mức 2.000.000đ/tháng cho đến khi cháu N đủ 18 tuổi và có khả năng lao động; Xét sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa là phù hợp với quy định tại khoản 02 điều 82 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 , phù hợp với nhu cầu thiết yếu của cháu N tại thời điểm hiện tại nên Hội đồng xét xử công nhận.

[3] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Duy H không được chấp nhận nên ông H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình và 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại khoản 04 điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 và điểm a,b khoản 06 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Tiền tạm ứng án phí do ông H nộp tại biên lai số 0020224 ngày 20/12/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết sẽ được chuyển thành án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/Áp dụng: khoản 03 Điều 28, điểm a khoản 01 Điều 35, điểm a khoản 01 Điều 39, Điều 147, Điều 235 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;Khoản 03 Điều 81, khoản 02 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án;Luật thi hành án dân sự.

2/ Tuyên xử:

[1] Không chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của nguyên đơn ông Nguyễn Duy H đối với bị đơn là bà Ninh thị Thùy D. Bà Ninh Thị Thùy D được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Ngọc Kim N - sinh năm: 14/6/2015 (giới tính: Nữ) theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và thỏa thuận của các đương sự số 121/2017/QĐST-HNGĐ ngày 204/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận.

Ông Nguyễn Duy H được quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung. Không ai được quyền cản trở, gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm nom, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

[2] Tuyên buộc Ông Nguyễn Duy H phải trợ cấp nuôi con chung Nguyễn Ngọc Kim N - sinh năm: 14/6/2015 với mức 2.000.000đ/tháng cho đến khi cháu N đủ 18 tuổi và có khả năng lao động;

[3] Về án phí: Ông Nguyễn Duy H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình và 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con; Số tiền 300.000đ tạm ứng án phí do ông H nộp tại biên lai số 0020224 ngày 20/12/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết sẽ được chuyển thành án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình. Ông H phải nộp thêm 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con.

Quyền kháng cáo của các đương sự là 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

443
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2018/HNGĐ-ST ngày 24/01/2018 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

Số hiệu:04/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về