Bản án 04/2018/DS-ST ngày 11/01/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 04/2018/DS-ST NGÀY 11/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 278/2017/TLST-DS ngày 31 tháng 10 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 189/2017/QĐXX-DS ngày 18/12/2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Phạm Văn Đ, sinh năm: 1983; Địa chỉ: Ấp Mỹ Hòa, xã Long Mỹ, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Ông Huỳnh Ngọc N, sinh năm: 1965; Bà Nguyễn Thị Bích P, sinh năm: 1965; Cùng địa chỉ: Ấp Mỹ Hòa, xã Long Mỹ, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Tại phiên tòa sơ thẩm, tất cả các đương sự đều có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi của nguyên đơn ngày 31/10/2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn là ông Phạm Văn Đ trình bày:

Ông bắt đầu mua bán thức ăn gia súc với vợ chồng ông N bà P từ ngày 25/7/2016. Hai bên thỏa thuận miệng ông cung cấp thức ăn chăn nuôi gà cho ông N bà P, đến khi chuồng thì trả hết tiền nợ thức ăn cho ông theo đợt bán. Đầu năm 2017 ông N bà P còn nợ của ông số tiền là 118.870.000 đồng nhưng sau khi bán gà ông N bà P chỉ trả cho ông 37.000.000 đồng, còn nợ lại là 81.870.000 đồng. Đến nay ông N bà P không trả tiếp cho ông số tiền nào.

Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Huỳnh Ngọc N và bà Nguyễn Thị Bích P có trách nhiệm trả cho ông số tiền do mua bán thức ăn còn nợ là 81.870.000 đồng và tiền lãi là 3.645.000 đồng (lãi suất 0,9%/tháng tính từ ngày 22/5/2017 đến ngày 31/10/2017), tổng cộng là 85.515.000 đồng.

Trong bản tự khai và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là ông Huỳnh Ngọc N và bà Nguyễn Thị Bích P trình bày:

Ông bà thừa nhận vợ chồng ông bà có mua thức ăn của ông Đ từ ngày 19/5 âl/2016 như ông Đ trình bày. Số tiền nợ gốc do mua thức ăn mà hiện tại vợ chồng ông bà còn nợ của ông Đ là 81.870.000 đồng. Do đàn gà bị bệnh và giá gà trên thị trường xuống thấp nên ông bà chưa có khả năng trả tiền thức ăn cho ông Đ.

Trước yêu cầu của ông Đ vợ chồng ông bà cũng đồng ý trả số tiền 81.870.000 đồng nhưng khi nào ông bà tái đàn gà lại và chăn nuôi có lãi thì ông bà mới trả cho ông Đ được, ông bà không đồng ý trả lãi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Do có quen biết với nhau nên giữa ông Phạm Văn Đ và ông Huỳnh Ngọc N, bà Nguyễn Thị Bích P có thỏa thuận giao dịch với nhau về việc mua bán thức ăn gia súc, cụ thể như sau:

Vào khoảng tháng 7 năm 2016, ông Đ hợp đồng bán thức ăn cho ông N, bà P, theo hình thức gối đầu. Mỗi lần giao thức ăn cho ông N, bà P thì ông Đ có ghi sổ theo dõi số lượng bao và ngày giao. Hai bên có thỏa thuận miệng là sau mỗi đợt bán gia súc, ông Bằng, bà P trả tiền cho ông Đ và ông Đ sẽ giao hàng tiếp.

Quá trình thực hiện hợp đồng: Hai bên mua bán thức ăn đến đầu năm 2017ông và ông N, bà P Đầu năm 2017 ông N  bà P còn nợ của ông số tiền là 118.870.000 đồng nhưng sau khi bán gà ông N bà P chỉ trả cho ông 37.000.000 đồng, còn nợ lại là 81.870.000 đồng. Đến nay ông N bà P không trả tiếp cho ông.

Ngày 22/5/2017, ông N bà P không trả tiếp cho ông Đ và đồng ý viết giấy nợ còn thiếu của ông số tiền Đ số tiền là 81.870.000 đồng và ông N, bà P ký tên nhận nợ nhưng không trả nữa cho đến nay.

Xét thấy đây là hợp đồng mua bán thức ăn mà căn cứ vào giấy xác nhận nợ tiền thức ăn của ông Đ, ông N bà P ký nhận, ông N bà P cũng thừa nhận còn nợ của ông Đ số tiền là 81.870.000 đồng.

Ông Đ cho rằng nhiều lần ông Đ đòi nợ nhưng ông N bà P không thực hiện việc trả nợ như hợp đồng nên ông N bà P đã phạm hợp đồng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Đ, cần buộc ông N bà P phải có trách nhiệm thanh toán số tiền thiếu mua thức ăn của ông Đ là 81.870.000 đồng, xét thấy yêu cầu của ông Đ là phù hợp nên chấp nhận.

Tại phiên tòa, ông Bằng, bà P vẫn đồng ý còn nợ số tiền mua thức ăn của ông Đ là 81.870.000 đồng, nhưng ông N bà P nhưng khi nào ông bà tái đàn gà lại và chăn nuôi có lãi thì ông bà mới trả cho ông Đ được là không phù hợp với quy định của pháp luật. Mặt khác, ông Đ không đồng ý nên không chấp nhận yêu cầu của ông N, bà P.

Về lãi suất: Ông Đ không yêu cầu tính lãi. Hội đồng xét xử xét thấy đây là sự tự nguyện của ông Đ nên Hội đồng xét xử không xem xét về lãi suất.

Từ những phân tích trên, cần buộc ông Huỳnh Ngọc N, bà Nguyễn Thị Bích P phải có trách nhiệm cho ông Phạm Văn Đ số tiền nợ gốc của việc mua bán thức ăn là 81.870.000 đồng (Tám mươi mốt triệu tám trăm bảy mươi nghìn đồng).

Về án phí: Buộc ông Huỳnh Ngọc N, bà Nguyễn Thị Bích P có trách nhiệm liên đới phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định là 4.093.500 đồng (Bốn triệu không trăm chín mươi ba nghìn năm trăm đồng).

Do yêu cầu của ông Phạm Văn Đ được chấp nhận nên ông Phạm Văn Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại cho ông Đ số tiền tạm ứng án phí ông Đ đã nộp là 2.138.000 đồng (Hai triệu một trăm ba mươi tám nghìn đồng) theo biên lai thu số 0012947 ngày 31/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 430, 440, của Bộ luật dân sự; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; ; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về quy định mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Phạm Văn Đ về việc yêu cầu ông Trần Ngọc N, bà Nguyễn Thị Bích P có trách nhiệm liên đới trả lại cho ông Phạm Văn Đ số tiền nợ mua bán thức ăn là 81.870.000 đồng (Tám mươi mốt triệu tám trăm bảy mươi nghìn đồng).

2. Buộc ông Trần Ngọc N, bà Nguyễn Thị Bích P có trách nhiệm trả cho ông Phạm Văn Đ số tiền là 81.870.000 đồng (Tám mươi mốt triệu tám trăm bảy mươi nghìn đồng).

3. Bác yêu cầu của ông Huỳnh Ngọc N, bà Nguyễn Thị Bích P về việc khi nào ông bà tái đàn gà và có lãi mới trả cho ông Đ.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày ông Phạm Văn Đ có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Huỳnh Ngọc N, bà Nguyễn Thị Bích P chưa thực hiện N vụ trả tiền như án tuyên thì hàng tháng ông N, bà P còn phải trả cho ông Đ số tiền lãi đối với khoản nợ gốc theo Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc ông Huỳnh Ngọc N, bà Nguyễn Thị Bích P có trách nhiệm liên đới phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định là 4.093.500 đồng (Bốn triệu không trăm chín mươi ba nghìn năm trăm đồng).

Hoàn lại cho ông Đ số tiền tạm ứng án phí ông Đ đã nộp là 2.138.000 đồng (Hai triệu một trăm ba mươi tám nghìn đồng) theo biên lai thu số 0012947 ngày 31/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2018/DS-ST ngày 11/01/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:04/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về