Bản án 03/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 176/2020/HSST ngày 17 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST- HS ngày 08/01/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T , sinh ngày 05/10/1984 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở: Thôn H, xã Kim X, huyện V , tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Hoàng Thị L; có vợ là Đào Thị N và có 03 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 04/QĐ-XPVPHC ngày 11/04/2018 của Công an huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Văn T 1.000.000,đ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, T nộp phạt ngày 01/06/2018. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/9/2020 đến nay (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Tiến: Bà Kim Hồng Thanh- Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 25/9/2020, Nguyễn Văn T , đang ở nhà tại Thôn H, xã Kim X, huyện V , tỉnh Vĩnh Phúc thì nảy sinh ý định sử dụng ma túy, nên một mình bắt xe bus từ nhà đến thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc rồi đi bộ đến ngõ 4, đường Trần Quốc Tuấn, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên thì gặp một người phụ nữ đứng ở đầu ngõ. Qua trao đổi, T biết người phụ nữ này có ma túy bán nên T hỏi và mua 01 gói ma túy Heroine với giá 180.000,đ. Sau khi mua được ma túy, T cầm gói ma túy trên tay trái đi bộ tìm nơi sử dụng. Khi T đi đến đường Kim Ngọc, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc thì bị Tổ công tác Công an phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra, phát hiện lập biên bản thu giữ tại lòng bàn tay trái của T 01 gói giấy nhỏ chứa chất cục, bột màu trắng, được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu A1.

Cùng ngày 25/9/2020, Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên ra Quyết định trưng cầu giám định số 429, yêu cầu giám định đối với 01 gói giấy bên trong chứa bột màu trắng được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu A1. Tại Kết luận giám định số 2473/KL-GĐ ngày 28/9/2020 của Phòng kỹ hình sự- Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 0,1693 gam (Không phảy một sáu chín ba gam, không kể bao bì), loại Heroine. Hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm: A1= 0,1270 gam mẫu và toàn bộ bao gói, được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả”.

Ngay sau khi Nguyễn Văn T bị bắt, xét nghiệm nước tiểu, kết quả xét nghiệm T dương tính với ma túy heroine.

Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ, Nguyễn Văn T khai nhận: Do được bạn bè nghiện ngoài xã hội cho biết, nên T đi một mình đến khu vực ngõ 4, đường Trần Quốc Tuấn, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc hỏi và mua được của một người phụ nữ không rõ tên tuổi, địa chỉ 01 gói ma tuý heroin với giá 180.000,đ sau đó T tìm nơi sử dụng ma túy thì bị bắt giữ.

Cáo trạng số 02/CT-VKSTP.VY ngày 16/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận về hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm 03 tháng tù; áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,1270gam ma túy (Heroin) và toàn bộ bao gói sau giám định; không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về điều kiện hoàn cảnh của bị cáo T là hộ cận nghèo, là lao động chính trong gia đình, phải nuôi 03 con còn nhỏ, điều kiện kinh tế gia đình rất khó khăn, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo T được hưởng mức án thấp nhất.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Văn T tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội; phù hợp với biên bản sự việc; phù hợp với vật chứng đã thu giữ và kết luận giám định cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 25/9/2020, tại đường Kim Ngọc, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Tổ công tác Công an phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện lập biên bản sự việc. Thu giữ của T 01 gói giấy nhỏ chứa chất bột màu trắng, kết quả giám định là ma túy Heroine, có khối lượng 0,1693g. Hoàn lại 0,1270g mẫu và toàn bộ báo gói sau giám định Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), có khung hình phạt đến 05 năm tù.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý xã hội, chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, làm nhân dân lên án và bất bình. Do đó cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Bị cáo phạm tội theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt tù đến 05 năm tù nên theo quy định của Bộ luật Hình sự thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Trước khi phạm tội bị cáo đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” mặc dù đã được coi là xử phạt, nhưng thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu bị cáo không lấy đó làm bài học, tu sửa rèn luyện bản thân để cai nghiện mà tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Nên cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định để giáo dục cải tạo bị cáo sớm trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đó là: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo”, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng.

[2] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo là hộ cận nghèo, bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng, thu nhập gì, nên Hội đồng xét xử không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng người T hành tố tụng đều hợp pháp.

[4] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và hành vi liên quan trong vụ án: Người phụ nữ không rõ tên tuổi, địa chỉ đã bán ma túy cho T ngày 25/9/2020. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch của người này. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ xử lý sau.

[5] Về Vật chứng của vụ án:

Đối với 0,1270 gam ma túy (Heroin) và toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt bị tạm giữ, tạm giam ngày 25/9/2020.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Tịch thu, tiêu hủy 0,1270 gam ma túy (Heroin) và toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định (Đặc điểm tang vật như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/11/2021).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 03/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về