Bản án 03/2021/HS-ST ngày 18/02/2021 về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUYÊN HẢI, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 18/02/2021 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Trong ngày 18 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2021/HSST-QĐ ngày 02 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Văn M (tên thường gọi: Cọt), sinh ngày 01 tháng 01 năm 1999. Nơi sinh: tỉnh Trà Vinh. Nơi đăng ký thường trú: Ấp B, xã T, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Chỗ ở: Ấp B, xã T, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 3/12; dân tôc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tich: Viêt Nam; con ông Trần Văn A, sinh năm 1966 va ba Lâm Thị X, sinh năm 1971; có vợ tên Trần Thị Que (đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự số 15A/2021/QĐST-HNGĐ ngày 08/02/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải) nhưng không có con; tiền án: Không có, tiền sự: Không có; nhân thân: tốt. Bi cao bi tạm giữ từ ngày 15/12/2020 đến ngày 18/12/2020 chuyển tạm giam cho đến nay (có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Em Tạ Thị Tường D, sinh ngày 05/10/2005 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Người đại diện hợp pháp cho em Tạ Thị Tường D: Ông Tạ Tuấn H, sinh năm 1977 (cha ruột, có đơn xin xét xử vắng mặt) và bà Võ Thị Hồng Ch, sinh năm 1980 (Mẹ ruột, có mặt) Cùng trú tại: Ấp C, xã D, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn M: Ông Trần Minh Nh, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Trà Vinh (Có mặt)

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại em Tạ Thị Tường D: Ông Diệp Minh Tr, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Trà Vinh (Có mặt) Cùng địa chỉ: Số 04 Lê Thánh T Phường X, Thành phố T, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cáo trạng số: 02/CT-VKS-HS ngày 18 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh truy tố bị cáo Trần Văn M về tội “Cướp tài sản” theo d, e khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015). Hành vi bị truy tố của bị cáo như sau: Vào khoảng 15 giờ ngày 15/12/2020, Trần Văn M đi vào phía sau nhà bà Võ Thị Hồng Ch thì nhìn thấy em Tạ Thị Tường D là con của bà Võ Thị Hồng Ch, sinh ngày 05/10/2005 trên tay có cầm điện thoại di động nên M nảy ý định Chếm đoạt điện thoại của em D để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. M đi vào nhà sau của bà Ch cầm theo cây dao dài 25cm, cán bằng nhựa màu đen lấy trong nhà bà Ch và đi lên nhà trên. Lúc này, M nhìn thấy em D ở trong phòng, còn trên bàn học sinh trước cửa phòng có 02 cái điện thoại di động. M định lấy 02 cái điện thoại nhưng sợ bị phát hiện nên đứng nép sát vào tường trước cửa phòng. Đợi một lúc, khi em D từ trong phòng bước ra thì M dùng tay trái kẹp cổ em D kéo lại, tay phải cầm dao kề vào cổ em D. Do em D la lên nên M dùng tay trái bịt miệng em D lại và kêu im. Em D dùng tay gỡ M tay của M ra và la lên. Nghe tiếng kêu của em D, bà Võ Thị Bến nhà bên cạnh đi qua thì thấy M dùng tay trái bịt miệng em D và tay phải kề vào cổ em D nên bà Bến hỏi “mày làm gì vậy” thì M trả lời “không có gì đâu cô” rồi buông em D ra, đồng thời lấy hai điện thoại di động để trên bàn rồi bỏ chạy.

Tại Kết luận định giá số: 20 ngày 28/12/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thị xã Duyên Hải đã kết luận: 01 điện thoại di động hiệu IPHONE đã qua sử dụng, không còn giá trị nên định giá là 0 đồng; 01 điện thoại di động hiệu OPPO đã qua sử dụng, không còn giá trị nên định giá là 0 đồng.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn M thành khẩn thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duyên Hải mô tả và truy tố.

Trong phần tranh tụng tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Văn M như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duyên Hải, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt: đề nghị áp dụng các điểm d, e khoản 2 Điều 168; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 đề nghị xử phạt bị cáo Trần Văn M từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu nên không xem xét.

Về vật chứng: Vật chứng là 01 con dao, phần cán dao bằng nhựa màu đen, có Chều dài đo được 10cm; lưỡi dao bằng kim loại có Chều dài đo được 15cm; bản lưỡi dao rộng 3,5cm; một bề sống; 01 bề sắc bén; mũi dao tù. Do ông Tạ Tuấn H và bà Võ Thị Hồng Ch có ý kiến không nhận lại nên áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu, tiêu hủy vật chứng.

Đối với Chếc áo và khẩu tranh y tế, bị cáo M vứt bỏ trên đường bỏ chạy nhưng do không xác định vị trí nên không thu giữ được.

Người đại diện hợp pháp của bị hại không phát biểu ý kiến tranh luận. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại thống nhất quan điểm của Kiểm sát viên nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất quan điểm của Kiểm sát viên về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo. Về hình phạt thì người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xem xét mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt mà vị kiểm sát viên đề nghị. Bị cáo không trình bày, phát biểu ý kiến bổ sung.

Tranh luận về mức hình phạt đối với bị cáo, Kiểm sát viên cho rằng hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, mặc dù không gây thiệt hại lớn về tài sản nhưng có ảnh hưởng tới tâm lý của bị hại, gây dư luận không tốt tại địa phương. Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị mới đủ sức răn đe tội phạm và mới có tác dụng phòng chống tội phạm. Do đó, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt cho bị cáo theo quy định pháp luật và không tranh luận thêm.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn M đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi cướp tài sản đối với em Tạ Thị Tường D. Lời khai của bị cáo la phù hợp với lơi khai cua bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện Tr, biên bản thu giữ vật chứng va cac tai liêu khac co trong hồ sơ vu an. Vơi các tinh tiết và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, Hôi đồng xet xư co đu chưng cư đê xac đinh: vào khoảng 15 giờ ngày 15/12/2020, bị cáo Trần Văn M đã có hành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm kề vào cổ em Tạ Thị Tường D là người chưa thành niên và cướp tài sản là 02 cái điện thoại di động của em D để trên bàn. Như vậy, đã có đầy đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” theo các điểm d, e khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015 [2] Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cũng đã thẩm tra các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thấy rằng các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều đúng quy định pháp luật. Những người tham gia tố tụng không khiếu nại hay có ý kiến nào khác phản đối các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Vì vậy, các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm hại đến tài sản hợp pháp của bị hại; đe dọa xâm hại sức khỏe của bị hại mà còn gây mất an ninh, trật tự công cộng và dư luận không tốt tại địa phương. Hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự nên bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với hành vi do bị cáo gây ra.

[4]Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong quá trình giải quyết vụ án, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản bị cáo cướp được định giá là 0 đồng do không còn giá trị sử dụng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Ngoài ra, xét bị cáo có nhân thân tốt (không có tiền án, tiền sự); bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên được xét cho hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015

[5] Về hình phạt: Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng. Bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, nghiện chơi game, mặc dù có vợ và hoàn cảnh gia đình khó khăn nhưng không chí thú làm ăn mà chỉ muốn có tiền tiêu xài cá nhân bằng việc Chếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi phạm tội của bị cáo gây ảnh hưởng tâm lý của bị hại là người chưa thành niên; gây hoang mang trong dư luận. Do đó, mức hình phạt mà vị Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo Trần Văn M là tương xứng tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được xem xét; vừa có tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo nhưng cũng đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Người đại diện hợp pháp của bị hại và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại cũng thống nhất đồng tình với đề nghị của Kiểm sát viên. Vì vậy, người bào chữa đề nghị áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 là không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng: Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo Trần Văn M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Trần Văn M phạm tội “Cướp tài sản”.

Về hình phạt:

Áp dụng các điểm d, e khoản 2 Điều 168; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Trần Văn M 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 15/12/2020.

Về trách nhiệm dân sự: Không có yêu cầu nên không xem xét.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu, tiêu hủy: 01 con dao, phần cán dao bắng nhựa màu đen, có Chều dài đo được 10cm; lưỡi dao bằng kim loại có Chều dài đo được 15cm; bản lưỡi dao rộng 3,5cm; một bề sống; 01 bề sắc bén; mũi dao tù.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Văn M phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại bà Võ Thị Hồng Ch; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại em Tạ Thị Tường D, người đại diện hợp pháp của bị hại ông Tạ Tuấn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết côn khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HS-ST ngày 18/02/2021 về tội cướp tài sản

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duyên Hải - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về