Bản án 03/2021/HS-ST ngày 08/01/2021 về tội môi giới mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG 

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 08/01/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 08 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 128/2020/TLST- HS ngày 30-11-2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2020/QĐXXST-HS ngày 10-12-2020 đối với bị cáo:

Võ Trung H (có tên gọi khác là A), sinh năm 1985; Nơi sinh: tỉnh Sóc Trăng; Nơi cư trú: ấp T, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Làm thuê; Con ông Võ Văn L và bà Phan Thị H; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo đang được tại ngoại. (có mặt) - Người làm chứng:

1. Bà Danh Thị B, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Số 53/26 đường M, Khóm 2, Phường 4, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

2. Chị Nguyễn Yến L, sinh năm 2002; Nơi tạm trú: Nhà trọ số 152 đường Đ, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

3. Bà Võ Thị Bích N, sinh năm 1999; Nơi cư trú: ấp N, xã Q, huyện H, tỉnh Bạc Liêu. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 23-5-2020, Ngọc N, Kim Ngọc T, Lý N gặp nhau và rủ nhau đi mua dâm thì tất cả đều đồng ý. Lúc này, Ngọc N lấy điện thoại điện cho Võ Trung H là nhân viên lễ tân tại khách sạn Gia H đường P, Phường 2, thành phố S vì Ngọc N biết H là người môi giới cho khách mua bán dâm, kêu H giới thiệu 03 gái bán dâm để mua dâm thì H đồng ý. Khi điện thoại cho H xong thì Ngọc N, T và N đi đến khách sạn L, T thuê phòng số 101, N thuê phòng 103 và Ngọc N thuê phòng 105, thuê phòng xong thì cả 03 đi vào phòng để chờ gái bán dâm, khoảng 30 phút sau thì H kêu 03 gái bán dâm đến để thực hiện hành vi mua bán dâm. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Đội Cảnh sát Hình sự - Công an thành phố S, phối hợp với Công an Phường 2 kiểm tra hành chính tại Khách sạn L tại Số 172 đường T, Khóm 6, Phường 2, thành phố S. Qua kiểm phát hiện Kim Ngọc T đang mua dâm với Nguyễn Yến L tại phòng số 101, Lý N đang mua dâm với Võ Thị Bích N tại phòng số 103 và Ngọc N đang mua dâm với Danh Thị B tại phòng 105, nên tiến hành lập biên bản vi phạm và mời những người có liên quan về cơ quan Công an làm việc.

Tại cơ quan Điều tra, Võ Trung H khai nhận: Bản thân bắt đầu hoạt động môi giới mại dâm từ khoảng năm 2017 cho đến ngày 23-5-2020 thì bị bắt. Khi nào người mua dâm đến gặp trực tiếp hoặc qua điện thoại nói với H cần gái bán dâm để mua dâm thì Hđiện thoại cho người tên C hoặc người tên V nhưng không rõ họ tên và địa chỉ để gọi gái bán dâm đến để bán dâm cho người mua dâm, địa điểm mua, bán dâm là do khách mua dâm chọn. Về giá bán dâm là do H trực tiếp thỏa thuận với người mua dâm, với giá 500.000 đồng trên mỗi lượt mua bán dâm. Khi bán dâm xong thì gái bán dâm nhận tiền trực tiếp từ người mua dâm, sau đó về đưa cho C, H hoặc V từ 50.000 đồng đến 150.000 đồng trên một lần bán dâm, số tiền trên thì C, V và H chia nhau. Từ khi bắt đầu hoạt động môi giới mại dâm đến ngày bị bắt thì H môi giới cho L bán dâm cho người mua dâm được khoảng 09 lần, môi giới cho N bán dâm cho người mua dâm được khoảng 07 lần, môi giới cho L bán dâm cho người mua dâm được 01 lần, số tiền thu lợi bất chính từ việc môi giới mại dâm là khoảng 1.400.000 đồng. Vào ngày bị kiểm tra hành chính, khi H đang làm việc tại khách sạn Gia H thì có người bạn tên Ngọc N điện thoại cho H, nói với H cần 03 gái bán dâm đến khách sạn L để bán dâm cho Ngọc N và bạn, thì H đồng ý. Hđiện thoại cho V nói với V kêu 03 gái bán dâm đến khách sạn L vào phòng 101, 103 và 105 để bán dâm cho khách thì V đồng ý, khi các gái bán dâm đang bán dâm thì bị Công an kiểm tra, phát hiện nên mời những người có liên quan về làm việc, quá trình điều tra thì H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại Cáo trạng số 129/CT-VKS.TPST ngày 27-11-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S đã truy tố bị cáo Võ Trung H về tội “Môi giới mại dâm” theo điểm d, đ Khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Võ Trung H phạm tội “Môi giới mại dâm”.

Áp dụng điểm d, đ Khoản 2 Điều 328; điểm r, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Khoản 2, điểm a Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 03 bao cao su đã qua sử dụng.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J6 màu đỏ; 01 điện thoại di động hiệu OPPO A20 màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung; Tiền Việt Nam là 1.400.000 đồng.

Trả lại cho người làm chứng bà Nguyễn Yến L: tiền Việt Nam là 1.810.000 đồng.

Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay kHnại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đảm bảo đúng quy định pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa, những người làm chứng là Danh Thị B, Nguyễn Yến L và Võ Thị Bích N không có lý do. Xét thấy, trong quá trình điều tra thì những người làm chứng nêu trên đã có lời khai rõ ràng về các tình tiết của vụ án và việc vắng mặt cũng không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xét xử vắng mặt đối với những người làm chứng nêu trên.

[3]. Tại phiên tòa, bị cáo Võ Trung H đã khai nhận:

Bị cáo là nhân viên lễ tân tại khách sạn Gia H đường P, Phường 2, thành phố S do muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên bị cáo bắt đầu hoạt động môi giới mại dâm từ khoảng tháng 7-2017 cho đến ngày bị bắt. Cách thức môi giới mại dâm là khi nào có khách cần mua dâm thì đến gặp trực tiếp hoặc điện thoại cho bị cáo, sau đó bị cáo điện thoại cho người quen là H hoặc Việt để gọi gái đến bán dâm cho khách, còn địa điểm là do khách mua dâm tự chọn, mỗi lần bán dâm với giá từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng, gái bán dâm nhận tiền trực tiếp của khách rồi đem về đưa lại cho bị cáo từ 50.000 đồng đến 150.000 đồng. Trong thời gian hoạt động môi giới mại dâm, bị cáo đã dẫn dắt, giới thiệu cho Danh Thị B bán dâm được 01 lần, Nguyễn Yến L bán dâm được 09 lần và Võ Thị Bích N bán dâm được 07 lần cho 15 người khách mua dâm. Riêng vào ngày khoảng 19 giờ ngày 23-5-2020, người bạn tên Ngọc N điện thoại cho bị cáo nói cần 03 gái bán dâm đến khách sạn L tại Số 172 đường T, Khóm 6, Phường 2, thành phố S để bán dâm cho Ngọc N, Kim Ngọc T và Lý N thì bị cáo đồng ý. Sau đó, bị cáo điện thoại cho V kêu 03 gái bán dâm đến khách sạn L vào phòng 101, 103 và 105 để bán dâm cho khách thì V đồng ý, khi các gái bán dâm đang bán dâm cho khách thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang. Từ việc môi giới mại dâm bị cáo thu lợi được số tiền là 1.400.000 đồng.

[4]. Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Đối với bị cáo Võ Trung H đã dẫn dắt, giới thiệu cho gái bán dâm là Danh Thị B, Nguyễn Yến L và Võ Thị Bích N bán dâm 17 lần cho 15 người khách mua dâm nên bị cáo phạm tội thuộc trường hợp 02 lần trở lên và đối với 02 người trở lên. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Võ Trung H phạm tội “Môi giới mại dâm” theo điểm d, đ Khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét về nhân thân, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo. Bị cáo tự khai ra những lần phạm tội trước đó. Bị cáo cũng tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chính là 1.400.000 đồng. Cha ruột của bị cáo là ông Võ Văn L được tặng thưởng Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng ba. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cần được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Ngoài ra, do bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm r, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên cần áp dụng Khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng của vụ án như sau:

Đối với 03 bao cao su là vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy Đối với 05 điện thoại di động là vật dùng làm phương tiện để liên hệ mua bán dâm còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với số tiền 1.400.000 đồng là của bị cáo có được từ việc môi giới mại dâm nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với số tiền 1.810.000 đồng là của cá nhân người làm chứng bà Nguyễn Yến L không dùng vào việc mua bán dâm nên cần trả lại cho người làm chứng L.

[7]. Đối với người tên C và tên V là người mà bị cáo điện thoại để gọi gái bán dâm đến bán dâm cho khách nhưng không rõ họ tên và địa chỉ nên chưa làm việc được. Đề nghị Cơ quan Điều tra tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo quy định pháp luật.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[9]. Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh và việc áp dụng pháp luật là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Về hình phạt cần xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d, đ Khoản 2 Điều 328; điểm r, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Khoản 1 Điều 54; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Căn cứ vào điểm a, b, c Khoản 2, điểm a Khoản 3 Điều 106; Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố : Bị cáo Võ Trung H phạm tội “Môi giới mại dâm”

1. Xử phạt bị cáo Võ Trung H 02 (hai) năm tù. Thời hạn thi hành án hình phạt tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện thi hành án hoặc từ ngày bắt bị cáo thi hành án hình phạt tù.

2. Về xử lý vật chứng: Theo Phiếu nhập kho số NK025 ngày 30-11-2020 của Chi cục Thi hành Dân sự thành phố S, tỉnh Sóc Trăng như sau:

Tịch thu tiêu hủy: 03 bao cao su đã qua sử dụng.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J6 màu đỏ; 01 điện thoại di động hiệu OPPO A20 màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung; tiền Việt Nam là 1.400.000 đồng.

Trả lại cho người làm chứng bà Nguyễn Yến L: tiền Việt Nam là 1.810.000 đồng.

3. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp là 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

651
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HS-ST ngày 08/01/2021 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về