Bản án 03/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:122/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 136/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Trang Văn T (tên thường gọi là T cá kèo); Sinh ngày: 17/6/1985; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 08 đường MV, Phường M, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Hoa; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trang Văn T1 và bà: Lâm Thị M; Có vợ: Không và con: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 16/9/2020.

Tiền án: Ngày 27/4/2006, bị Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 10 năm tù về tội «Mua bán trái phép chất ma túy» (Bản án số:147/2006/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/9/2014 (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 1878/GCN của Trại giam Thủ Đức). Bị cáo chưa thi hành xong phần hình phạt bổ sung (Trả lời xác minh ngày 20/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh).

Tiền sự: Ngày 02/10/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở Cai nghiện bắt buộc 21 tháng về hành vi sử dụng chất ma túy (Quyết định số:423/QĐ-TA). Trang Văn T khiếu nại và ngày 01/11/2018, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên họp xem xét không chấp nhận khiếu nại, giữ nguyên Quyết định số: 423/QĐ-TA của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh (Quyết định số: 585/2018/QĐ-TA). Chấp hành xong ngày 12/4/2020 (Giấy chứng nhận số: 72/GCN-CSBL ngày 28/3/2020 của Cơ sở cai nghiện ma túy Bố Lá).

(có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Lê Thị Kim A; Sinh năm: 1989; Thường trú: 132/68 đường BĐ, Phường N, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; Tạm trú: 13 Lô G, đường PVC, Phường G, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh.

(có mặt) 2. Bà Nguyễn Thị Ngọc Th; Sinh năm: 1973; Thường trú: 726/1A đường PTH, Phường D, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; Tạm trú: 13 Lô G, đường PVC, Phường G, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh.(có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 12 giờ 30 phút ngày 16/9/2020, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an Quận 6 trên đường tuần tra phát hiện Trang Văn T điều khiển xe gắn máy biển số 59D2-670.73 chạy đến trước nhà số 35 đường Bình Phú, Phường 10, Quận 6 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ công tác đã thu giữ trong túi quần phía trước bên trái của T 01 gói nylon và 01 đoạn ống nhựa chứa chất bột màu trắng (T khai là Heroine), nên đã giao T cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Trang Văn T khai: Bản thân nghiện Heroine nên khoảng 12 giờ ngày 16/9/2020, T hỏi bà Lê Thị Kim A (bạn gái của bị cáo) mượn chiếc xe gắn máy biển số 59D2-670.73 đến Quốc lộ 50 thuộc huyện Bình Chánh nhờ một người tên Long (không rõ lai lịch) mua giùm 01 gói Heroine giá 500.000 đồng. Long liền gọi điện thoại cho một người tên Anh (không rõ lai lịch) hỏi mua ma túy. Anh đồng ý và hẹn giao ma túy tại khu vực gần Siêu thị Metro trên đường Bình Phú, Phường 10, Quận 6. Sau đó, T đến điểm hẹn gặp Anh nhận gói ma túy và sau khi cất ma túy vào trong túi quần phía trước bên trái, T điều khiển xe chạy về đến trước nhà số 35 đường Bình Phú thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Tại Kết luận giám định số: 1614/KLGĐ-H ngày 24 tháng 9 năm 2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: 01 gói được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Trần Chiều Hòa (người chứng kiến), Trang Văn T và hình dấu Công an Phường 10, Quận 6, bên trong có:

- Bột màu trắng trong 01 gói nylon cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3981g (không phẩy ba chín tám một gam), loại Heroine.

- Bột màu trắng trong 01 đoạn ống nhựa cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1188g (không phẩy một một tám tám gam), loại Heroine.

Đối với những người tên Long, tên Anh bán ma túy cho Trang Văn T, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 01/CT-VKS-Q6 ngày 11 tháng 12 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trang Văn T về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Bị cáo Trang Văn T khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi mua ma túy (loại Heroine) với giá 500.000 đồng để dành sử dụng và bị Công an phát hiện bắt quả tang tại nhà số 35 đường Bình Phú, Phường 10, Quận 6 vào trưa ngày 16/9/2020 như nội dung bản cáo trạng nêu;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Lê Thị Kim A khai chiếc điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng (bên trong có 01 sim điện thoại số thuê bao 0937524521) mà Công an đang tạm giữ là của bà. Ngày 16/9/2020, bị cáo Trang Văn T (bạn trai của bà) nói đi công việc và đã tự ý cầm theo chiếc điện thoại này để sử dụng vào việc gì, bà không biết. Nay, bà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả chiếc điện thoại lại cho bà. Trường hợp chiếc điện thoại bị hư không sử dụng được, bà cũng không có ý kiến hay yêu cầu gì về phần bồi thường;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Nguyễn Thị Ngọc Th xác nhận chiếc xe gắn máy biển số 59D2-670.73, số máy JF63E-1143804, số khung RLHJF6308FZ619533 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Honda, số loại Air Blade, sơn màu Đen Đỏ, dung tích 124) mà công an đang tạm giữ là xe của bà, do bà đứng tên chủ sở hữu. Sáng ngày 16/9/2020, bà Lê Thị Kim A hỏi bà mượn chiếc xe để đi công việc. Còn việc Trang Văn T hỏi bà Kim A mượn lại chiếc xe khi nào, mượn để đi đâu làm gì thì bà không biết. Nay, bà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả chiếc xe cho bà để bà có phương tiện đi lại. Trường hợp chiếc xe có bị hư hỏng không sử dụng được, bà cũng không có ý kiến hay yêu cầu gì về phần bồi thường.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trang Văn T như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Trang Văn T từ 03 năm đến 04 năm tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động màu trắng, bên ngoài mặt sau ghi chữ Oppo đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Trang Văn T và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói ma túy bên ngoài có ghi vụ số: 1614/20 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Trần Hoàng Hải và cán bộ điều tra Phạm Tiến Nguyên. Bên trong có: bột màu trắng có khối lượng 0,3253 gam, bột màu trắng có khối lượng 0,0682 gam; 01 sim điện thoại số thuê bao 0769579869.

Trả lại bà Lê Thị Kim A 01 chiếc điện thoại di động màu hồng, bên ngoài mặt sau có ghi chữ Iphone (bên trong có 01 sim điện thoại số thuê bao 0937524521) đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Trang Văn T và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6.

Trả lại bà Nguyễn Thị Ngọc Th 01 chiếc xe gắn máy biển số 59D2-670.73, số máy JF63E-1143804, số khung RLHJF6308FZ619533 (loại xe hai bánh từ 50- 175cm3, nhãn hiệu Honda, số loại Air Blade, sơn màu Đen Đỏ, dung tích 124).

Lời nói sau cùng, bị cáo Trang Văn T nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Trang Văn T tại phiên tòa với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Kết luận giám định; lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trang Văn T đã phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Trang Văn T đã cất giữ chất ma túy ở thể rắn mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy khác. Và thời điểm bắt quả tang đã thu giữ của bị cáo 0,5169 gam ma túy ở thể rắn, loại Heroine (bị cáo khai cất giữ số ma túy này để nhằm mục đích sử dụng). Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» thuộc trường hợp «Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam» theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo Trang Văn T không những đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý, trao đổi, cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Trang Văn T là người đã trưởng thành, bị cáo hoàn toàn nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức được hành vi cất giữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Bản thân bị cáo Trang Văn T đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng (ngày 27/4/2006, bị Tòa án nhân dân Quận 8 xử phạt 10 năm tù về tội «Mua bán trái phép chất ma túy»), chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý là tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Mặt khác, ngày 02/10/2018, bị cáo còn bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở Cai nghiện bắt buộc 21 tháng về hành vi sử dụng chất ma túy. Bị cáo khiếu nại và ngày 01/11/2018, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên họp xem xét không chấp nhận khiếu nại, giữ nguyên quyết định ngày 02/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh. Điều này cho thấy tuy đã được cải tạo, giáo dục, bị cáo Trang Văn T vẫn không chịu rèn luyện, tu dưỡng để trở thành người công dân có ích cho xã hội mà ngược lại vẫn tiếp tục sống buông thả để ngày càng lún sâu vào con đường phạm tội. Chứng tỏ bị cáo là người bất chấp pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Trang Văn T là nghiêm trọng. Mặt khác, ma túy nói chung và các chất ma túy ở thể rắn như Heroine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Trang Văn T còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Việc xử lý vật chứng: Phương tiện mà bị cáo Trang Văn T dùng vào việc phạm tội là 01 chiếc điện thoại di động màu trắng, bên ngoài mặt sau ghi chữ Oppo đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Trang Văn T và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Hội đồng xét xử tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Riêng 01 gói ma túy bên ngoài có ghi vụ số: 1614/20 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Trần Hoàng Hải và cán bộ điều tra Phạm Tiến Nguyên. Bên trong có: bột màu trắng có khối lượng 0,3253 gam, bột màu trắng có khối lượng 0,0682 gam; 01 sim điện thoại số thuê bao 0769579869 (trong chiếc điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng), là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Còn 01 chiếc điện thoại di động màu hồng, bên ngoài mặt sau có ghi chữ Iphone (bên trong có 01 sim điện thoại số thuê bao 0937524521) đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Trang Văn T và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bà Lê Thị Kim A, vì đây là tài sản hợp pháp của bà Anh. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với chiếc xe gắn máy biển số 59D2-670.73 thu giữ của bị cáo Trang Văn T, theo Kết luận giám định số: 5110/KLGĐ-X(Đ4) ngày 09/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL79); Phiếu trả lời xác minh số: 2792 ngày 01/10/2020 của Công an Quận 6 (BL75) và Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 155482 của Công an Quận 8 (BL76) thì chiếc xe này có số máy JF63E-1143804, số khung RLHJF6308FZ619533 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Honda, số loại Air Blade, sơn màu Đen Đỏ, dung tích 124), đứng tên chủ xe là Nguyễn Thị Ngọc Th. Sáng ngày 16/9/2020, bà Th cho bà Lê Thị Kim A mượn chiếc xe, sau đó bị cáo T hỏi bà Kim A (bạn gái của bị cáo) mượn chiếc xe đi công việc, nhưng lại sử dụng làm phương tiện phạm tội. Xét thấy chiếc xe gắn máy biển số 59D2-670.73 có giấy tờ, nguồn gốc hợp pháp, việc bị cáo sử dụng xe làm phương tiện phạm tội, cả bà Kim A, bà Th đều không biết, nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát là trả chiếc xe lại cho bà Th theo quy định tại khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Ngoài ra, tại phiên tòa bà Th không có ý kiến hay yêu cầu bồi thường gì đối với chiếc xe, nên Hội đồng xét xử không xét.

(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 184/PNK ngày 28 tháng 10 năm 2020 và Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14 tháng 12 năm 2020 của Công an Quận 6; Quyết định chuyển vật chứng số: 01/QĐ-VKS-Q6 ngày 11 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 6) [7] Đối với những người tên Long, tên Anh bán ma túy cho bị cáo Trang Văn T, do bị cáo khai không rõ nhân thân lai lịch, nên không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Bị cáo Trang Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Trang Văn T (T cá kèo) phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trang Văn T (T cá kèo) 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 16/9/2020.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động màu trắng, bên ngoài mặt sau ghi chữ Oppo đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Trang Văn T và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6.

- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói ma túy bên ngoài có ghi vụ số: 1614/20 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Trần Hoàng Hải và cán bộ điều tra Phạm Tiến Nguyên. Bên trong có: bột màu trắng có khối lượng 0,3253 (không phẩy ba hai năm ba) gam, bột màu trắng có khối lượng 0,0682 (không phẩy không sáu tám hai) gam; 01 (một) sim điện thoại số thuê bao 0769579869.

- Căn cứ khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bà Lê Thị Kim A 01 (một) chiếc điện thoại di động màu hồng, bên ngoài mặt sau có ghi chữ Iphone (bên trong có 01 sim điện thoại số thuê bao 0937524521) đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Trang Văn T và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6.

Trả lại bà Nguyễn Thị Ngọc Th 01 (một) chiếc xe gắn máy biển số 59D2- 670.73, số máy JF63E-1143804, số khung RLHJF6308FZ619533 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Honda, số loại Air Blade, sơn màu Đen Đỏ, dung tích 124).

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Trang Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Trang Văn T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Lê Thị Kim A, Nguyễn Thị Ngọc Th có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 03/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về