Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp hôn nhân & gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HÒA - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN & GIA ĐÌNH

Ngày 22 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa, T1 phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 248/2020/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2020/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T - sinh năm 1994 (vắng mặt) Nơi ĐKHKTT: Thôn M, xã K, huyện Ư, thành phố Hà Nội

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Tiến T1 - sinh năm 1986 (vắng mặt) Nơi ĐKHKTT: Thôn M, xã K, huyện Ư, thành phố Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn ly hôn, bản tự khai, biên bản hòa giải chị Nguyễn Thị T là nguyên đơn trình bày: Chị và anh Nguyễn Tiến T1 qua một thời gian tìm hiểu thì cả hai kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã K năm 2019. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không thể tìm thấy tiếng nói chung. Bản thân anh T1 thường xuyên ghen tuông vô cớ rồi về nhà chửi đánh chị. Trước khi hai vợ chồng kết hôn, cả hai đều đã từng có gia đình, ly hôn. Hiện tại anh T1 đang nuôi hai con riêng. Chính vì vậy, cuộc sống chung giữa chị với gia đình chồng, với chồng, với các con chồng luôn căng thẳng. Chị cố gắng nhẫn nhịn để mong vợ chồng có cuộc sống hạnh phúc nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì tình cảm vợ chồng càng phai nhạt bấy nhiêu. Đến tháng 4 năm 2020, anh T1 đánh đuổi chị nên chị bế con đi; thuê nhà (Khu công nghiệp Đồng Văn) sống ly thân cho đến nay.

Trong thời gian sống ly thân, không ai hỏi thăm quan tâm đến ai; bản thân anh T1 cũng không hề quan tâm đến con. Nay chị nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, mâu thuẫn đã trầm trọng, ly thân được một thời gian, mục đích hôn nhân không đạt nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh T1. Về con chung: chị và anh T1 có 01 con chung là Nguyễn Khánh N – sinh ngày 12/6/2019. Hiện cháu đang ở với chị. Khi ly hôn, chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được nuôi con vì cháu còn nhỏ; đồng thời hiện tại anh T1 đang trực tiếp nuôi 02 con riêng; bản thân chị đang làm công nhân, thuê nhà nên có chỗ ở, công việc ổn định để có thể đảm bảo cuộc sống của hai mẹ con; chị không đề nghị anh T1 cấp dưỡng tiền nuôi con. Về tài sản, công nợ chung: chị không yêu cầu đề nghị Tòa giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Tiến T1 không có quan điểm, ý kiến.

Tại phiên tòa, anh Nguyễn Tiến T1 vắng mặt lần thứ hai không có lý do, chị Nguyễn Thị T có đơn xin vắng mặt và vẫn giữ nguyên ý kiến, không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa có quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đầy đủ các quy định về tố tụng dân sự như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự, tạo điều kiện cho họ được trình bày quan điểm, tiến hành hòa giải theo đúng quy định. Hội đồng tiến hành xét xử vụ án đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: đề nghị Tòa giải quyết xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Nguyễn Tiến T1. Về con chung, giao cho chị T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Nguyễn Khánh N – sinh ngày 12/6/2019; tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với anh T1 cho đến khi có thay đổi khác. Chị T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị T đã làm đơn ly hôn theo mẫu và đã đóng dự phí ly hôn theo đúng quy định của pháp luật. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình, Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa tiến hành thụ lý, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án toà án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập anh Nguyễn Tiến T1 đến toà án làm việc theo đúng trình tự của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh T1 không có mặt. Hội đồng xét xử đã mở phiên toà ngày 06/01/2021 nhưng do sự vắng mặt của anh T1 nên Hội đồng xét xử hoãn phiên toà, tại phiên toà hôm nay mặc dù được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh T1 vẫn vắng mặt, chị T có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử đối với vụ án.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Tiến T1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện Ứng Hòa năm 2019 là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống hạnh phúc thì xảy ra muân thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không tìm thấy tiếng nói chung; bản thân chị T không hòa hợp với gia đình chồng cũng như con riêng của anh T1. Vì nguyên nhân vậy nên cuộc sống hôn nhân của hai anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân đã được một thời gian. Nay chị T cương quyết xin ly hôn anh T1. Anh T1 thì không có quan điểm, ý kiến gì.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương cung cấp: trước khi kết hôn với chị T, anh T1 đã ly hôn và nuôi hai con. Cuộc sống chung giữa vợ chồng chị T và anh T1 liên tục xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, liên tục xảy ra cãi chửi nhau; gia đình, họ hàng, chính quyền địa phương khuyên bảo nhiều lần. Vợ chồng đã ly thân mấy tháng nay. Nay chị T có có đơn ly hôn, chính quyền địa phương có ý kiến: đề nghị Tòa căn cứ vào thực tế và quy định của pháp luật để giải quyết đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ.

Xét thấy: Cuộc sống giữa chị T và anh T1 mẫu thuẫn từ lâu đã đến mức trầm trọng, sống ly thân, mục đích hôn nhân không đạt. Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của chị T là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Tiến T1 có 01 con chung là Nguyễn Khánh N – sinh ngày 12/6/2019. Chị T đề nghị Tòa giải quyết cho chị được nuôi con và không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng; anh T1 thì không có quan điểm, ý kiến.

Xét về tính ổn định, môi trường sinh hoạt cũng như tuổi của cháu thì Hội đồng xét xử thấy: hiện tại cháu N chưa được hai tuổi. Bản thân cháu đang ở với chị T. Chị T là công nhân có công việc ổn định, có thu nhập. Chính quyền địa phương cũng có quan điểm đề nghị Tòa căn cứ thực tế giải quyết để đảm bảo sự ổn định và quyền lợi, sự phát triển của trẻ em. Vì vậy, giao chị T nuôi cháu N là phù hợp với khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Chị T không đề nghị anh T1 cấp dưỡng tiền nuôi con nên tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với anh T1 cho đến khi có thay đổi khác; anh T1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở là phù hợp Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản, công nợ chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Tiến T1 không yêu cầu đề nghị Toà giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị T phải nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định pháp luật. Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; khoản 3 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

Căn cứ Điều 227, 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sư:

Căn cứ Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Nguyễn Tiến T1.

2. Về con chung: Có 01 con chung. Sau ly hôn, giao chị Nguyễn Thị T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Nguyễn Khánh N – sinh ngày 12/6/2019; tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với anh T1 cho đến khi có thay đổi khác. Anh T1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

“Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó”.

3. Về tài sản, công nợ chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Tiến T1 không yêu cầu đề nghị Toà giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0009824 ngày 07 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Ứng Hòa, T1 phố Hà Nội.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn đều có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã nơi thường trú đối với người vắng mặt./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp hôn nhân & gia đình

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về