Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 19 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 284/2020/TLST-HNGĐ, ngày 28 tháng 10 năm 2020 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1112/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị N; trú tại: Tổ dân phố x, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng, vắng mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Phạm Đình Đ; trú tại: Thôn N, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng; hiện đang chấp hành án tại X - Trại giam T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 16 tháng 10 năm 2020 và bản tự khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Đoàn Thị N trình bày:

Chị và anh Phạm Đình Đ tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng vào ngày 10 tháng 8 năm 2013. Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống ở gia đình anh Đ tại thôn N, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận thời gian đầu, sau đó phát sinh mâu thuẫn do anh Đ ham mê cờ bạc, không quan tâm đến gia đình và nghiện ma tuý dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi, đánh nhau. Hai bên gia đình nhiều lần động viên, can ngăn anh Đ nhưng không có kết quả. Ngày 29 tháng 6 năm 2019 anh Đ bị Toà án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng kết án 24 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và chấp hành án phạt tù tại: Trại giam T, huyện N, tỉnh Thanh Hoá. Tháng 5 năm 2020, chị N bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở tổ dân phố 6, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng, sinh sống. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn nên đề nghị Toà án giải quyết cho chị ly hôn anh Đ. Về con chung: Chị Đoàn Thị N trình bày chị và anh Đ có 01 con chung là Phạm Đình T, sinh ngày 04 tháng 10 năm 2013. Ly hôn, chị N nhận nuôi con và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Chị Đoàn Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Phạm Đình Đ trong quá trình giải quyết vụ án trình bày: Về quan hệ vợ chồng, anh xác nhận chị N trình bày về thời gian, điều kiện kết hôn, mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Nay chị N có đơn xin ly hôn anh đồng ý. Về con chung: Anh Đ xác nhận anh và chị N có 01 con chung như chị N trình bày là đúng, ly hôn anh nhận nuôi con và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Anh Đ trình bày anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã đảm bảo đúng quy định pháp luật tố tụng. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 19, 51, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị N được ly hôn anh Đ. Về con chung: Giao cho chị N nuôi con chung là Phạm Đình Thịnh, sinh ngày 04 tháng 10 năm 2013 đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh Đ. Về tài sản chung: Chị N, anh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Về án phí chị N phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình, bị đơn là anh Phạm Đình Đ có đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở tại: Thôn N, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng; hiện đang chấp hành án tại: Trại giam T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn chị N, bị đơn anh Đ vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị N, anh Đ.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh Đ tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng vào ngày 10 tháng 8 năm 2013 là hôn nhân hợp pháp. Mâu thuẫn vợ chồng theo chị N, anh Đ trình bày là do anh Đ ham mê cờ bạc, không quan tâm đến gia đình và nghiện ma tuý. Tháng 6 năm 2019, anh Đ bị Toà án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng kết án 24 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và chấp hành án phạt tù tại: Trại giam T, huyện N, tỉnh Thanh Hoá. Tháng 5 năm 2020, chị N bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở tổ dân phố X, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng, sinh sống. Chị N, anh Đ đều xác nhận vợ chồng không còn tình cảm, không thể chung sống lâu dài. Chính quyền địa phương, hai bên gia đình cũng xác nhận mâu thuẫn của vợ chồng anh chị. Xét thấy, tình trạng mâu thuẫn giữa chị N và anh Đ là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị N xin ly hôn anh Đ là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Chị N, anh Đ có một con chung là Phạm Đình T, sinh ngày 04 tháng 10 năm 2013. Chị N, anh Đ đều đề nghị được nuôi con và không yêu cầu bên kia cấp dưỡng nuôi con. Xét, anh Đ hiện đang chấp hành án phạt tù tại: Trại giam T, huyện N, tỉnh Thanh Hoá nên việc giao cháu Phạm Đình T cho anh Đ nuôi dưỡng là không phù hợp. Căn cứ quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị N được nuôi dưỡng con chung. Chị N không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh Đ.

[5] Về tài sản chung: Chị N, anh Đ, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 235, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các điều 19, 51, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Chị Đoàn Thị N được ly hôn anh Phạm Đình Đ.

2. Về con chung: Giao cho chị Đoàn Thị N nuôi dưỡng con Phạm Đình T, sinh ngày 04 tháng 10 năm 2013 đến khi con đủ 18 tuổi, hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh Phạm Đình Đ.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đoàn Thị N phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Đoàn Thị N đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0011568 ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Chị Đoàn Thị N đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Chị Đoàn Thị N, anh Phạm Đình Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về