Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn giữa chị y và anh T

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ Y VÀ ANH T

 Hôm nay, ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 373/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 thá ng 10 năm 2020, về tranh chấp "Ly hôn", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Hải Y, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Số nhà 113/8 đường P, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Anh Mạc Tấn T, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Số nhà 60/21 đường P, phường Lộc Tiến, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

(Chị Y và anh T đều có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 01/10/2020, các lời khai trong qúa trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị Hải Y trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Mạc Tấn T chung sống với nhau từ năm 2012 và đến năm 2018 mới đi đăng ký kết hôn tại UBND phường Lộc Tiến, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 23/01/2018. Do đã từng sống chung trước đó nên sau khi đăng ký kết hôn thì hai bên không tổ chức nghi lễ cưới theo phong tục 1 truyền thống, gia đình hai bên cũng không gặp mặt. Trong quá trình chung sống với nhau, vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn trong cách làm ăn kinh tế. Anh T thường xuyên uống rượu nên vợ chồng hay cãi vã, xô xát, chị đã nhiều lần cho anh T cơ hội sửa chữa nhưng anh T vẫn không thay đổi. Tình cảm vợ chồng bị rạn nứt nên chị và anh T đã sống mỗi người một nơi không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị không còn tình cảm gì với anh T, hôn nhân không hạnh phúc, chị đề nghị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Đình Trâm A, sinh ngày 06/11/2012 và Mạc Bảo T, sinh ngày 23/12/2017 hiện nay đang sống cùng chị. Khi ly hôn chị đề nghị được nuôi 02 con chung. Chị đủ điều kiện để nuôi 02 con nên không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị Y khai không có.

Nợ chung: Chị Y khai không có.

Các lời khai trong qúa trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Mạc Tấn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Trần Thị Hải Y chung sống và đăng ký kết hôn đúng như chị y trình bày. Hai bên tự nguyện đi đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Quá trình sống chung vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do công việc anh có đi ăn nhậu với bạn bè nhưng chị Y không thích, cư xử hỗn láo với anh do vậy vợ chồng thường xuyên xảy ra xích mích, cãi vã. Mỗi lúc chị Y nóng giận đã vứt đồ đạc của anh và đuổi anh ra khỏi nhà. Từ giữa năm 2020 anh đã chuyển ra nhà trọ sống riêng, anh cũng có khuyên bảo chị Y để vợ chồng về đoàn tụ nhưng chị Y không đồng ý. Nay các con anh còn nhỏ dại và anh vẫn còn thương yêu vợ con, mong muốn gia đình đoàn tụ nên anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung đúng như chị Y trình bày. Hiện nay 02 con đang sống cùng chị Y, anh vẫn thường xuyên sang thăm con và đóng tiền học cho các con. Trong trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì anh đề nghị được nuôi con Mạc Bảo T, còn cháu Trần Đình Trâm A thì giao cho chị Y nuôi. Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh T khai không có.

Nợ chung: Anh T khai không có.

Tòa án đã tiến hành tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải ngày 29/12/2020 nhưng không thành.

Tại phiên tòa, chị Y vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh T và đề nghị Tòa án cho chị được nuôi 02 con chung. Anh T mong muốn được đoàn tụ không đồng ý ly hôn. Trường hợp Tòa án cho ly hôn thì anh đề nghị được nuôi 02 con chung và không yêu cầu chị Y cấp dưỡng nuôi con.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thực hiện đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự qui định.

Về giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Y đối với anh T; Giao 02 con chung cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng, vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thỏa thuận nên không xem xét; Về tài sản chung, nợ chung: các đương sự khai không có nên không xem xét; Về án phí: buộc chị Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo qui định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết qủa tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị Hải Y và anh Mạc Tấn T được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống chị Y và anh T bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn trong cách làm ăn kinh tế. Anh T thường xuyên uống rượu nên vợ chồng hay xảy ra cãi vã, xô xát dẫn đến tình cảm vợ chồng bị rạn nứt. Qua xác minh tại chính quyền địa phương, người thân cho thấy vợ chồng chị Y anh T có mâu thuẫn do anh T hay uống rượu nên vợ chồng thường xuyên xích mích, cãi vã. Cả anh T và chị y đều thừa nhận đã sống mỗi người một nơi từ giữa năm 2020 cho đến nay, anh T cũng đã nhiều lần khuyên bảo chị y trở về đoàn tụ nhưng chị Y cương quyết không đồng ý. Phía chị Y thì cương quyết xin ly hôn với anh T vì vợ chồng không còn tình cảm. Như vậy, tình trạng hôn nhân của chị Y và anh T đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị y là có căn cứ.

[2]. Về con chung: Xét yêu cầu được nuôi 02 con chung của chị Y thấy rằng từ khi chị Y và anh T không sống chung với nhau thì các con sống chung với chị Y, các cháu được chị Y chăm sóc phát triển bình thường. Xét yêu cầu của anh T khi ly hôn muốn được nuôi 02 con chung thấy rằng hiện nay cháu Trần Đình Trâm Anh có nguyện vọng được sống cùng mẹ, cháu Mạc Bảo Trâm còn nhỏ cũng đang sống cùng chị Y. Chị Y đã có nhà riêng và có đủ điều kiện nuôi con chăm sóc con phát triển tốt. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho các con nên giao cả 02 con chung Trần Đình Trâm A, sinh ngày 06/11/2012 và Mạc Bảo T, sinh ngày 23/12/2017 cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

[3]. Về tài sản chung: Chị Y và anh T khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về nợ chung: Chị Y và anh T đều khai không có, trong quá trình giải quyết vụ án không ai có tranh chấp gì nên không xem xét.

[5]. Xét ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên chấp nhận.

[6]. Về án phí: Chị Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (ly hôn) theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Điều 56, 81,82,83,84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị Hải Y và anh Mạc Tấn T.

2. Về con chung: Giao 02 con chung Trần Đình Trâm A, sinh ngày 06/11/2012 và Mạc Bảo T, sinh ngày 23/12/2017 cho chị y trực tiếp nuôi dưỡng, chị Y không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn và thay đổi nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về tài sản chung: Chị Y và anh T khai không có.

4. Về nợ chung: Chị Y và anh T khai không có.

5. Về án phí: Chị Trần Thị Hải Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (ly hôn) là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0018591 ngày 06/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B. Chị Y đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án phúc thẩm giải quyết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn giữa chị y và anh T

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về