Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện P xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 102/2020/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2020/QĐXX – ST ngày 30 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Như T, sinh năm 1976 (Có mặt). Trú tại: Xóm N, xã B, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

- Bị đơn: Chị Phạm Thị T, sinh năm 1984(Có mặt). Trú tại: Xóm N, xã B, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Nguyên đơn anh Nguyễn Như T tại đơn khởi kiện,bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay khai như sau: Anh với chị Phạm Thị T kết hôn năm 2012 trên cơ sở tự nguyện, được tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã P, thành phố T, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn được một năm thì phát sinh mâu thuẫn, do tính tình không hợp, chị T thường xuyên đánh con riêng của anh.

Nên hai vợ chồng hay sảy ra việc cãi vã và đánh nhau, năm 2014 anh đã gửi đơn xin ly hôn chị T tại Tòa án Phú Bình, nhưng chị T xin anh quay lại để tự sửa chữa lỗi lầm, do lúc đó con còn nhỏ nên anh đã rút đơn xin ly hôn chị T. Nhưng đến thời điểm hiện nay, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng ngày càng trầm trọng, anh xác định không thể sống với chị T được nữa, anh đề nghị Tòa án nhân dân huyện P giải quyết cho anh được ly hôn với chị T.

- Về con chung: Anh chị có một con chung là cháu Nguyễn Ánh D, sinh ngày 28/8/2013. Nếu ly hôn anh xin được nuôi cháu con và không yêu cầu chị T phải đóng tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng với anh.

- Về tài sản chung: Có 01 nhà cấp 4, diện tích 71m2 xây trên đất của bố anh cho anh trước kết hôn, phần nhà anh với chị T tự thỏa thuận với nhau.

- Về nợ chung: Không có.

- Về tài liệu chứng cứ do anh Nguyễn Như T nộp tại Toà án gồm: 01 đơn khởi kiện về việc ly hôn của anh T với chị T; 01 trích lục kết hôn; 01 trích lục khai sinh của con chị T, anh T; 02 chứng minh nhân dân của chị T, anh T; 01 sổ hộ khẩu của gia đình anh T, chị T.

2. Bị đơn chị Phạm Thị T tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay khai như sau: Chị xác định thời gian kết hôn, con chung đúng như anh T khai. Về mâu thuẫn của vợ chồng chị cũng không có gì lớn, chủ yếu là do anh T nghe mẹ đẻ súi dục, nên giữa anh với chị mới sảy ra mâu thuẫn, anh T cũng đã nhiều lần làm đơn xin ly hôn chị tại Tòa án nhân dân huyện P, đến nay hai vợ chồng chị đã sống ly thân nhau, không còn quan tâm đến nhau nữa.Nay anh T xin ly hôn thì chị cũng nhất trí ly hôn.

- Về con chung: Anh chị có một con chung là cháu Nguyễn Ánh D, sinh ngày 28/8/2013. Nếu ly hôn chị xin được nuôi cháu con và yêu cầu anh T phải đóng tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng với chị cho đến khi cháu Dương tròn 18 tuổi.

- Về tài sảnchung: Có 01 nhà cấp 4, diện tích 71m2 cùng công trình phụ; 0,7ha rừng.

- Về nợ chung: Có nợ của chị gái của chị 35.000.000đ để xây nhà, khi nợ không có giấy biên nhận giữa hai bên.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng các bên đương sự không thỏa thuận được về phần nuôi con chung. Nên vụ án phải đưa ra xét xử công khai ngày hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ tại hồ sơ, sau khi nghe các đương sự trình bày tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự, các bên đương sự đều có nơi cư trú tại huyện P nên thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện P.

[2]. Về nội dung: Anh T, chị T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn nên được thừa nhận là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Lý do anh T xin ly hôn chị Tlà do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, chị T thường xuyên đánh đập con riêng của anh T, nên vợ chồng liên tục xảy ra những cuộc xích mích to tiếng, kèm theo những lời xúc phạm, lăng mạ nhau.

Hội đồng xét xử xét thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh T với chị T đã diễn ra trong một thời gian dài. Đến nay, tình cảm vợ chồng không thể hòa hợp và hàn gắn được, hai vợ chồng hiện đã sống ly thân. Như vậy xác định mâu thuẫn giữa hai anh chị đã trầm trọng, kéo dài, mục đích hôn nhân không thể đạt được, cuộc sống chung giữa hai vợ chồng anh chị không còn tồn tại. Nên Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu của anh T, cho anh được ly hôn với chị T là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật.

[3].Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Ánh D, sinh ngày 28/8/2013. Tại phiên tòa ngày hôm nay, các bên đương sự đều đề nghị được nuôi con chung. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xác định cháu Nguyễn Ánh D là con gái còn nhỏ tuổi, nếu giao cháu Dương cho anh T nuôi dưỡng thì sẽ không đảm bảo được sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của bé gái. Nên Hội đồng xét xử thấy cần phải giao cháu Nguyễn Ánh D cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, chị T yêu cầu anh T phải có trách nhiệm đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng là 1.500.000đ. Hội đồng xét xử thấy yêu cầu này của chị T là phù hợp nên chấp nhận yêu cầu này của chị. Buộc anh T phải có trách nhiệm đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T mỗi tháng là 1.500.000đ cho đến khi cháu Nguyễn Ánh D tròn 18 tuổi.

[4].Về tài sản chung: Quá trình hòa giải, chị T xác định anh chị có 01 nhà cấp 4 diện tích khoảng 75m2 cùng công trình phụ; 0,7ha rừng; Nợ của chị gái chị 35.000.000đ để làm nhà. Ngày 02/11/2020, chị T có đơn đề nghị Tòa án tiến hành thẩm định và định giá tài sản chung của anh chị, Tòa án đã ra thông báo nộp tiền tạm ứng chi phí tố tụng số 62/TB – TA ngày 02/11/2020 và đã giao thông báo này cho chị T. Đến ngày 10/11/2020, chị T đã có đơn đề nghị không giải quyết phần tài sản chung của anh chị nữa, chỉ đề nghị giải quyết việc ly hôn và giải quyết phần nuôi con chung của anh chị.

Đối với khoản nợ của chị gái chị T là 35.000.000đ, tại phiên Tòa ngày hôm nay chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nữa. Do đó Hội đồng xét xử không giải quyết khoản nợ này trong vụ án này.

[5]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, án phí DSST nộp vào ngân sách nhà nước.

[6]. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 55, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 357, 468 của Bộ Luật Dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Nguyễn Như T và chị Phạm Thị T.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ánh D, sinh ngày 28/8/2013 cho chị Phạm Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Như T phải có trách nhiệm đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T mỗi tháng là 1.500.000đ, cho đến khi cháu Dương tròn 18 tuổi, thời gian đóng góp được tính từ tháng 02/2021; Anh T có quyền đi lại thăm nom con chung, chị T không được ngăn cản anh T đến thăm nom, chăm sóc con.Vì lợi ích của cháu con, anh Nguyễn Như T có quyền xin thay đổi nuôi con chung đối với chị Phạm Thị T.

3.Về nghĩa vụ thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, chị T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh T không tự nguyện thi hành số tiền phải đóng góp cho chị T để nuôi con chung, thì lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của BLDS; Nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ Luật dân sự.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.

5.Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Nguyễn Như T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000325 ngày 25/5/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Thái Nguyên và 300.000đ án phí DSST vào Ngân sách nhà nước Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt các bên đương sự. Báo cho biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Lương - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về