Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN – TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 826/2020/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2020/QĐXX-HNGĐ ngày 25/12/2020 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Lê Thị Thu Ph, sinh năm 1988 Nơi thường trú: Số nhà X, phố Đ, tổ Y, phường P, TPTN, tỉnh Thái Nguyên Hiện tạm trú tại: Phòng A, nhà S, tổ X, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội.

2.Bị đơn: Anh Lê Bảo Kh, sinh năm 1981 Nơi thường trú: Số nhà X, phố Đ, tổ Y, phường P, TPTN, tỉnh Thái Nguyên (các đương sự có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 07/10/2020 và đơn khởi kiện bổ sung, bản tự khai, biên bản hoà giải, nguyên đơn chị Lê Thị Thu Ph trình bày:

Chị và anh Lê Bảo Kh được tìm hiểu yêu thương nhau tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường P, TPTN, tỉnh Thái Nguyên vào tháng 3 năm 2010. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì vợ chồng có những mâu thuẫn nhỏ phát sinh trong đời sống gia đình, năm 2015 vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng hơn do cách nuôi dậy con cái và từ đó kéo theo nhiều mâu thuẫn khác lớn hơn mặc dù chị và anh Kh cũng đã nhiều lần ngồi nói chuyện để tìm tiếng nói chung nhưng vợ chồng vẫn không thay đổi. Do vợ chồng mâu thuẫn nên năm 2017 chị luân chuyển công tác về Hà Nội và đưa con trai về nhà mẹ đẻ chị sinh sống cho đến nay. Từ đó cho đến nay vợ chồng không ai quan tâm đến ai, mặc dù anh Kh cũng có xuống thăm và chơi với con nhưng vợ chồng vẫn không quan tâm đến nhau, không nói chuyện về mọi vấn đề trong cuộc sống, vợ chồng sống ly thân, đến nay con chung cũng đã dần lớn tuổi, vợ chồng cũng có thời gian quá lâu để suy nghĩ lại về quan hệ vợ chồng nhưng không thay đổi được. Từ khi Tòa án thụ lý giải quyết ly hôn thì giữa chị và anh Kh cũng không thể ngồi với nhau để đưa ra phương án vợ chồng cùng tiếp tục chung sống, đến nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được do đó đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Kh Về con chung: Chị Ph xác định trong quá trình chung sống giữa chị và anh Kh có 01 con chung là Lê Bảo Nhật M, sinh ngày 04/2/2015, hiện cháu M học tại Trường mầm non tư thục BTH, địa chỉ ngõ X, đường XL, phường XL, quận TH, HN, cháu M ở với chị từ năm 2017 cho đến nay, do chị chăm sóc nuôi dưỡng. Hiện nay chị có công việc ổn định tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam (Techcombank) với mức lương ổn định khoảng 30.000.000 triệu đồng/tháng nên có đủ điều kiện để nuôi con, trong trường hợp được nuôi con chị đề nghị anh Kh có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con với mức 3.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung: Chị Ph xác định vợ chồng không có tài sản chung Về công nợ chung: chị Ph xác định vợ chồng không nợ ai và cũng không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, biên bản hòa giải bị đơn anh Lê Bảo Kh trình bày:

Anh xác định quá trình kết hôn, chung sống như chị Ph trình bày, về nguyên nhân mâu thuẫn anh xác định sau khi chị Ph sinh con thì vợ chồng cũng phát sinh một số mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống, đến tháng 9/2017 chị Ph tự ý đưa con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, tuy nhiên khoảng 01 năm gần đây thì chị Ph đã chủ động sống ly thân cho đến nay. Khi anh biết chị Ph làm đơn ly hôn anh cũng chủ động xuống thăm con và nói chuyện với chị Ph về quan hệ nhôn nhân của vợ chồng nhưng không đạt kết quả đồng thời anh đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nuôi dậy con cái.

Về con chung: Anh nhất trí như chị Ph trình bày tuy nhiên anh đề nghị được nuôi con vì hiện nay anh đang làm việc tại Ngân hàng công thương Việt Nam chi nhánh Thái Nguyên với mức lương 12.000.000đồng/tháng do đó anh có đủ thời gian, điều kiện để chăm sóc cháu Nhật Minh hơn chị Ph, trong trường hợp được nuôi con anh không yêu cầu chị Ph cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung công nợ chung anh cũng nhất trí trình bày của chị Ph, vợ chồng không có tài sản chung, công nợ chung.

Tại phiên tòa chị Ph, anh Kh giữ nguyên quan điểm như đã trình bày trong quá trình hòa giải, tuy nhiên anh Kh xác định hiện nay ngôn ngữ của cháu M nhiều khi chưa đảm bảo do đó nếu anh được nuôi con thì mọi tâm sinh lý của cháu M anh sẽ là người chăm sóc tốt và để cháu ở môi trường học tập tốt hơn, trong trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn và giao con cho chị Ph nuôi dưỡng anh nhất trí cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thành phố Thái Nguyên phát biểu ý kiến: Về Thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử, thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, chấp hành đúng thời hạn chuẩn bị xét xử, Hội đồng xét xử, thư ký đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Căn cứ Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, 56, Điều 57, 58, 81, 82, 83, 84, 116 và Điều 117 Luật hôn nhân gia đình; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016. Đề nghị hội đồng xét xử xem xét theo giải quyết theo hướng: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Thu Ph.

Về  quan hệ hôn nhân: Cho chị Lê Thị Thu Ph ly hôn với anh Lê Bảo Kh; Về con chung: Giao cháu Lê Bảo Nhật M cho chị Lê Thị Thu Ph chăm sóc, nuôi dưỡng; Về cấp dưỡng nuôi con: Hàng tháng anh Kh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng)/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Về tài sản chung, công nợ chung không giải quyết do không yêu cầu. Về án phí chị Ph phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Bị đơn Anh Lê Bảo Kh, có nơi thường trú: : Số nhà X, phố Đ, tổ Y, phường P, TPTN, tỉnh Thái Nguyên căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Sau khi thụ lý vụ án do các đương sự không thỏa thuận được giải quyết vụ án, căn cứ vào khoản 3 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên quyết định đưa vụ án ra xét xử.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Xét chị Lê Thị Thu Ph và anh Lê Bảo Kh có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường P, TPTN, tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở tự nguyện đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận. Qua lời khai của các đương sự có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa thấy giữa chị Ph và anh Kh đã có mâu thuẫn từ năm 2017 do đó chị Ph đã chuyển về Hà Nội làm ăn và sinh sống. Từ đó đến nay giữa chị Ph và anh Kh không có sự quan tâm, chia sẻ, vợ chồng không thể ngồi với nhau để nói chuyện liên quan đến cuộc sống vợ chồng, vợ chồng sống ly thân. Do đó Hội đồng xét xử xác định tình trạng hôn nhân của chị Ph và anh Kh trong tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, việc duy trì quan hệ hôn nhân cũng không mang lại hạnh phúc cho cả 2 bên. Do vậy, cần chấp yêu cầu khởi kiện của chị Ph, cho chị Ph được ly hôn với anh Kh là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: chị Ph, anh Kh có 01 con chung Lê Bảo Nhật M, sinh ngày 04/2/2015 các đương sự đều đề nghị được nuôi con. Xét yêu cầu được nuôi con của các đương sự thấy về điều kiện để nuôi con chị Ph và anh Kh đều có thu nhập ổn định tuy nhiên hiện nay cháu Nhật M còn nhỏ, việc ăn ở, học tập và sinh hoạt cùng mẹ là chị Lê Thị Thu Ph ổn định từ năm 2017 đến nay nên việc giao con chung Lê Bảo Nhật M cho chị Lê Thị Thu Ph tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là đảm bảo được quyền lợi mọi mặt cho con đồng thời phù hợp với thực tế và quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Anh Lê Bảo Kh được quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Chị Lê Thị Thu Ph và thành viên trong gia đình không được cản trở anh Lê Bảo Kh trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Ph xác định về điều kiện kinh tế chị đủ đảm bảo để nuôi dậy con tuy nhiên để anh Kh có trách nhiệm trong việc nuôi dậy con cái nên đề nghị anh Kh có nghĩa vụ việc cấp dưỡng nuôi con, tại phiên tòa anh Kh cũng nhất trí cấp dương nuôi con theo quy định do đó Hội đồng xét xử xem xét buộc anh Kh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con với mức 2.000.000 đồng là phù hợp với thực tế chi phí hiện nay cũng như phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình. Buộc anh Kh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung với số tiền là 2.000.000 đồng/tháng kể từ tháng 01/2021, thời hạn cấp dưỡng chậm nhất vào các ngày 28 hàng tháng, cho đến khi con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi) hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật.

[6] Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự cùng xác định vợ chồng không có tài sản chung, không nợ ai, không cho ai vay nợ nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Chị Ph phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật; anh Kh phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 116 và Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lê Thị Thu Ph.

1.Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lê Thị Thu Ph được ly hôn anh Lê Bảo Kh.

2. Về con chung: Trong quá trình chung sống chị Ph và anh Kh có 01 con chung Lê Bảo Nhật M, sinh ngày 04/2/2015.

2.1 Giao cho chị Lê Thị Thu Ph trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Lê Bảo Nhật M, sinh ngày 04/2/2015 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật.

2.2. Anh Lê Bảo Kh được quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Chị Lê Thị Thu Ph và thành viên trong gia đình không được cản trở anh Lê Bảo Kh trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

2.3 Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Lê Bảo Kh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung với số tiền là 2.000.000 đồng/tháng (Hai triệu đồng/ tháng) kể từ tháng 01/2021, thời hạn cấp dưỡng nuôi con chậm nhất vào ngày 28 hàng tháng, cho đến khi con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi) hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật.

2.4.Phương thức cấp dưỡng: Hàng tháng anh Lê Bảo Kh có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con Lê Bảo Nhật M qua tài khoản 19023810335018 mang tên Lê Thị Thu Ph tại Ngân hàng Thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam (Techcombank).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại các Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác

3. Về tài sản chung và công nợ chung: Các đương sự xác định không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị Thu Ph phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003653 ngày 22/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên. Anh Lê Bảo Kh phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.

5.Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

6.Quyền kháng cáo: Chị Lê Thị Thu Ph và anh Lê Bảo Kh được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về