Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 07/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỐT NỐT - THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Nhân dân quận Thốt Nốt - thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 330/2020/TLST-HNGĐ, ngày 18 tháng 11 năm 2020 về việc tranh chấp “Ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 192/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

Ng yên đơn Bà Phạm Thị T - sinh năm: 1983 Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, thành phố Cần Thơ.

Bị đơn Ông Nguyễn Minh M – sinh năm: 1982 Địa chỉ: khu vực D, phường E, quận F, thành phố Cần Thơ.

(Cả hai có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải, nguyên đơn bà Phạm Thị T và bị đơn ông Nguyễn Minh M thống nhất trình bày như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Trước đây ông, bà do tự quen biết và tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào tháng 02/2010, sau đó có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện C ngày 24/3/2017. Vợ chồng chung sống nhiều lần mâu thuẫn, ly thân rồi hàn gắn lại, đến ngày 30/4/2020 thì chính thức ly thân cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông M ăn chơi, cờ bạc, rượu chè, không lo làm ăn, dẫn đến thiếu nợ nhiều người, bà T đã nhiều lần cho ông M cơ hội khắc phục nhưng vẫn không từ bỏ được, do đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm. Nay xét thấy không thể tiếp tục chung sống nên bà T xin được ly hôn với ông M.

Ý kiến ông M không đồng ý ly hôn vì cho rằng còn thương vợ con, ông mong muốn vợ bỏ qua mâu thuẫn để vợ chồng đoàn tụ cùng chăm lo cho con cái, ông cam kết sẽ khắc phục các tật xấu, không rượu chè, cờ bạc nữa mà lo làm ăn để chăm lo cho gia đình.

- Về con chung: Ông, bà xác định có 01 con chung tên Nguyễn Phạm Quỳnh A – sinh ngày 08/4/2012, từ khi ly thân đến nay do ông M trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà T và ông M thống nhất thỏa thuận giao cháu Quỳnh A cho ông M tiếp tục nuôi dưỡng, bà T không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Ông, bà xác định không có, không yêu cầu giải quyết.

a án có phân tích, động viên hai bên bỏ qua mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm nhưng cuối cùng bà T vẫn giữ nguyên ý kiến kiên quyết xin ly hôn, các đương sự không thỏa thuận được với nhau do đó vụ án được đưa ra xét xử công khai.

Tại phiên toà hôm nay: Cơ bản các đương sự vẫn giữ nguyên ý kiến như đã trình bày. Bà T, ông M xác định lại trước đây vợ chồng không có tổ chức lễ cưới nhưng có đăng ký kết hôn theo quy định.

Ý kiến ông M: Trước đây ông có ký vào tờ thỏa thuận ly hôn với bà T là do lúc đó vợ chồng đang cãi nhau, ông nóng giận nên ký tên đồng ý ly hôn, nay suy nghĩ kỹ lại vì thương con còn nhỏ, mong muốn con có đủ cha mẹ nên ông vẫn giữ ý kiến xin được đoàn tụ.

Ý kiến bà T xác định: Bà không thể tiếp tục chung sống với ông M được nữa nên sau khi suy nghĩ kỹ đã quyết định kiên quyết xin ly hôn.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng từ khi Toà án thụ lý vụ án cho đến khi xét xử và tại phiên toà của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự là đúng theo quy định pháp luật. Đồng thời, phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn cho bà Phạm Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Minh M.

Về con chung: Tiếp tục giao cháu Quỳnh A cho ông M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, bà T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình tranh chấp về việc “Ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và Điều 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Về nội dung vụ án:

Xét quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông M là do tự quen biết và tự nguyện tiến tới hôn nhân, không có tổ chức lễ cưới nhưng có đăng ký kết hôn theo quy định. Quá trình chung sống giữa vợ chồng nhiều lần xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông M ăn chơi, cờ bạc, rượu chè, thiếu nợ nhiều người, bà T đã nhiều lần cho ông M cơ hội khắc phục nhưng vẫn không từ bỏ được, vợ chồng ly thân từ ngày 30/4/2020 cho đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy, trong thời gian ly thân ông M cũng có tìm gặp bà T để hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả, quá trình giải quyết vụ án Tòa án cũng đã động viên hòa giải nhưng bà T vẫn giữ ý kiến cương quyết ly hôn, điều này cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng là trầm trọng vì hôn nhân phải xuất phát từ sự tự nguyện của hai bên, ông M không đồng ý ly hôn và xin được đoàn tụ nhưng ông không tìm được biện pháp hàn gắn để thuyết phục bà T về chung sống. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng nếu tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân thì cũng không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được do đó nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho bà T được ly hôn với ông M là phù hợp.

[3] Về con chung: Ông, bà xác định có 01 con chung tên Nguyễn Phạm Quỳnh A – sinh ngày 08/4/2012, do ông M đang trực tiếp nuôi dưỡng. Ông, bà đã thống nhất thỏa thuận trường hợp ly hôn thì giao cháu Quỳnh A cho ông M tiếp tục nuôi dưỡng, bà T không phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy đây là sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự và phù hợp với nguyện vọng của cháu Quỳnh A, nghĩ nên chấp nhận.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Ông, bà xác định xác định không có nên không đặt vấn đề giải quyết.

[5] Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn bà T phải chịu án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 28, 35, 39, 147 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân & gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân : Chấp nhận yêu cầu cho bà Phạm Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Minh M.

Về con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Phạm Quỳnh A – sinh ngày 08/4/2012, do ông M đang trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, tiếp tục giao cháu Quỳnh A cho ông M được quyền nuôi dưỡng, bà T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho bà T, không ai có quyền cản trở. Bà T và ông M có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con vì lợi ích của con theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Phạm Thị T phải nộp số tiền 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ từ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/012547 ngày 06/11/2020 (công nhận đã nộp xong).

Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 07/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thốt Nốt - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về