Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 512/2020/TLST – HNGĐ ngày 01/10/2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 397/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 23 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 309/2020/QĐST-HN, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Triệu Thị G, sinh năm 1983 Địa chỉ: Tổ 07, ấp M2, xã H, thành phố X, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Ông Trần Hữu Đ, sinh năm 1982 Địa chỉ: Tổ 03, ấp M1, xã H, thành phố X, tỉnh An Giang.

(Bà G có đơn xin xét xử vắng mặt, ông Đ vắng mặt lần thứ hai)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng ngày 16/9/2020 và tại biên bản hòa giải, nguyên đơn là bà Triệu Thị G trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà G và ông Đ chung sống vào năm 2000 sau đó tiến tới hôn nhân, vợ chồng có đăng ký kết hôn 2007. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Bà G và ông Đ không còn chung sống từ năm 2015 cho đến nay. Bà G nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà xin được ly hôn với ông Trần Hữu Đ.

Về quan hệ con chung: Có 01 con chung tên Trần Thị A, sinh ngày 19/05/2002 do con đã trưởng thành, nên không có yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Trần Hữu Đ không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà G và vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

* Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án:

Bà G có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt vào ngày 23/11/2020, lý do phải đi làm ăn xa, điều kiện đi lại khó khăn nên không về dự tòa được. Ông Đ vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thành phần Hội đồng xét xử cũng như xác định quan hệ tranh chấp, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án đúng theo qui định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70 và 71 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Bị đơn mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng nhiều lần vắng không có lý do, không tham gia các phiên hòa giải, công khai chứng cứ, không trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Triệu Thị G đối với ông Trần Hữu Đ.

Về con chung: Bà G và ông Đ có 01 (một) con chung tên Trần Thị A, sinh ngày 19/05/2002 đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không xét đến.

Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Tranh chấp giữa bà Triệu Thị G và ông Trần Hữu Đ là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết.

[1.2] Bà Triệu Thị G có đơn đề nghị xét xử vắng mặt do phải đi làm ăn xa đi lại khó khăn nên không về dự tòa được. Căn cứ khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bà G.

[1.3] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo qui định tại Điều 177 và Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự, đồng thời tiến hành thu thập chứng cứ để xác định tình trạng cư trú của ông Trần Hữu Đ và được Công an xã H, thành phố X cung cấp thông tin: “Ông Trần Hữu Đ, sinh năm 1982 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 03, ấp M1, xã H, thành phố X, tỉnh An Giang”. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà G và ông Đ chung sống vào năm 2000 sau đó tiến tới hôn nhân, vợ chồng có đăng ký kết hôn vào năm 2007 tại Ủy ban nhân dân xã H. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cãi vã, đã hàn gắn nhiều lần nhưng vẫn không có kết quả. Do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên bà G và ông Đ không còn chung sống và đã ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Bà G nhận thấy vợ chồng sống với nhau không hạnh phúc mục đích hôn nhân không đạt được nên bà G yêu cầu được ly hôn với ông Đ.

Phía bị đơn được Tòa án nhiều lần niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi cư trú. Tuy nhiên, ông Đức vẫn không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình qua yêu cầu ly hôn của bà Gái và không đến tham gia hòa giải. Như vậy, ông Đức đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của bị đơn được quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự và đồng nghĩa với việc ông không còn quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân của mình.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng động viên bà Gái và tạo thêm thời gian để vợ chồng bà G ông Đ có cơ hội để hàn gắn tình cảm. Tuy nhiên, bà G vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn vì từ khi vợ chồng ly thân từ năm 2015 đến nay, ông Đ cũng chưa lần nào đến tìm bà để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ đó, có thể nhận thấy tình cảm của bà G dành cho chồng không còn, tình trạng mâu thuẫn trong hôn nhân của ông bà đã trầm trọng. Xét thấy, mục đích hôn nhân giữa bà G và ông Đ không đạt được, nếu tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của bà G được ly hôn với ông Đ.

[2.2] Về con chung: Bà G trình bày, bà và ông Đ có 01 (một) con chung tên Trần Thị A, sinh ngày 19/05/2002. Lời khai của bà G phù hợp với bản sao trích lục khai sinh do Ủy ban nhân xã H cấp ngày 22/7/2008. Xét thấy, con chung của bà G, ông Đ đã trưởng thành, có khả năng lao động và bà Gái cũng không có yêu cầu gì đối với con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà G trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung. Do bị đơn ông Đ cũng không có ý kiến về việc phân chia tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này, các bên phát sinh tranh chấp thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Về án phí : Bà Triệu Thị G phải nộp án phí Hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 179; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 238, Điều 273; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Triệu Thị G. Bà Triệu Thị G được ly hôn với ông Trần Hữu Đ.

- Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.

Về án phí Bà G phải chịu 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình. Do bà G đã nộp 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005175 ngày 30/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên. Bà Gái đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Triệu Thị G và ông Trần Hữu Đ được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về