Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 06 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 560/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 263/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 154/2020/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

* Ng uy ên đơn Chị Lê Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1985.

Đa chỉ: Tổ 3, ấp T, xã H, huyện C, tỉnh T.

* Bị đơn : Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1977.

- Nơi ĐKHKTT: 18/6 Nguyễn T, phường A, quận N, thành phố C.

- Tạm trú: Tổ 3, ấp T, xã H, huyện C, tỉnh T.

(Chị T có mặt; anh T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, các ý kiến và yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Lê Nguyễn Ngọc T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Do mai mối và được gia đình cha mẹ hai bên đồng ý, chị và anh T tiến tới hôn nhân vào năm 2005. Có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh T.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc được một thời gian, đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, thường hay cải nhau và bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Chị và anh T đã ly thân với nhau từ năm 2017 cho đến nay. Chị và anh T không thể tiếp tục sống chung với nhau được nữa nên chị xin được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

- Về con chung: Có 01 con chung tên là Nguyễn Duy T1, sinh ngày 17/9/2005, hiện nay cháu đang sống với chị, khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

* Bị đơn anh Nguyễn Văn T không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị Lê Nguyễn Ngọc T, mặc dù Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng đúng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Chị T trình bày nguyên nhân xin ly hôn với anh T là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh T chỉ lo nhậu nhẹt không chăm lo cuộc sống gia đình và vợ, con. Chị đã trao đổi nhiều lần nhưng anh T vẫn không sửa đổi. Nay chị xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh T; Về con chung chị yêu cầu tiếp tục được nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Duy T1, sinh ngày 17/9/2005, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: chị xác định không có.

- Anh T: Vắng mặt không có lý do mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ nhiều lần.

- Phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật, người tham gia tố tụng nguyên đơn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng. Bị đơn vắng mặt không đảm bảo theo quy định tại khoản 16 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đối với yêu cầu khởi kiện của chị T có cơ sở chấp nhận bởi lẽ, chị T và anh T xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã H cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 150/2005 ngày 06/12/2005. Chị T và anh T chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo chị T trình bày là do anh T nhậu nhẹt không lo vợ, con; bất đồng quan điểm; thường xuyên cãi nhau, chị và anh T không thể tiếp tục sống chung với nhau được nữa. Chị T và anh T đã ly thân từ năm 2017 đến nay. Phía bị đơn anh T mặc dù triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, không cung cấp ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị T hay ý kiến mong muốn vợ chồng được hàn gắn, đoàn tụ. Điều này thể hiện anh T không còn mong muốn tiếp tục cuộc sống hôn nhân với chị T nữa; mục đích hôn nhân giữa chị T và anh T không đạt được.

- Về con chung: Có 01 con chung tên là Nguyễn Duy T1, sinh ngày 17/9/2005. Theo trình bày của chị T thì cháu T1 hiện đang sống chung với chị T được chị T chăm sóc, nuôi dưỡng. Lời trình bày này phù hợp với thông tin ông Trần Minh D – Phó Trưởng ấp T, xã H cung cấp. Anh T không cung cấp ý kiến đối với yêu cầu của chị T. Do đó, cần giao cháu T1 cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không tranh chấp không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Do đó căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Lê Nguyễn Ngọc T và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 06 tháng 12 năm 2005 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh T nên được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Nay chị T và anh T phát sinh mâu thuẫn, nên chị T xin ly hôn với anh T. Theo xác nhận của ông Phạm Hoàng Tú – Phó Công an xã H, huyện C, tỉnh T xác nhận: “Nguyễn Văn T, sinh năm 1977, đăng ký thường trú phường Tân Hội, quận N, thành phố C đang tạm trú tại hộ bà Bạch Thị Em, đăng ký thường trú tổ 3, ấp T, xã H, huyện C, tỉnh T”. Vì vậy tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T theo quy định khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Anh Nguyễn Văn T là bị đơn trong vụ án, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh đã vắng mặt không lý do chính đáng, không gì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan là từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình được pháp luật bảo vệ nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh T trong vụ án này.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị T xác định sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc được đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Ngoài ra, anh T chỉ lo nhậu nhẹt không quan T cuộc sống gia đình và chăm lo vợ, con. Từ đó anh, chị thường hay cãi nhau. Chị đã trao đổi nhiều lần nhưng anh T vẫn không sửa đổi. Chị và anh T đã ly thân với nhau từ năm 2017 cho đến nay.

Nay chị T nhận thấy tình cảm không còn nữa nên chị quyết định khởi kiện ly hôn đối với anh Nguyễn Văn T.

Anh T không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện cũng như nguyên nhân mâu thuẫn mà phía chị T đưa ra. Mặc dù Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng nhiều lần nhưng anh T bỏ mặc không có văn bản thể hiện ý kiến, nguyện vọng của mình là muốn duy trì quan hệ hôn nhân này. Như vậy, anh T mặc nhiên thừa nhận nguyên nhân chị T đưa ra là đúng. Chị T xác định chị và anh T đã ly thân với nhau từ năm 2017 cho đến nay nhưng vẫn không thể hàn gắn đoàn tụ. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định tình cảm vợ chồng không còn, tình trạng hôn nhân của chị T và anh T là không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu xin ly hôn của chị T là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Giữa chị T và anh T có 01 con chung là cháu là Nguyễn Duy T1, sinh ngày 17/9/2005, hiện do chị T nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy theo biên bản xác minh ngày 30/10/2020, ông Trần Minh D – Phó Trưởng ấp T, xã H cung cấp: “…..hiện tại cháu Nguyễn Duy T1 đang ở chung với chị T…”. Và từ khi chị T và anh T ly thân đến nay do chị T nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Anh T không có ý kiến gì về việc nuôi con chung. Do đó, để đảm bảo sự phát triển và quyền lợi của cháu T1, Hội đồng xét xử xét cần giữ nguyên hiện trạng, tiếp tục giao cháu Nguyễn Duy T1 cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

[4] Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Anh Nguyễn Văn T có quyền tới lui, thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định pháp luật.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không có yêu cầu nên Tòa án không đặt ra để giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Lê Nguyễn Ngọc T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xét đề nghị của Vị Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 273, 278, 280 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Các Điều 24, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử: 1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Lê Nguyễn Ngọc T được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Tiếp tục giao con chung là cháu Nguyễn Duy T1, sinh ngày 17/9/2005 cho chị Lê Nguyễn Ngọc T nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Lê Nguyễn Ngọc T không có yêu cầu.

Anh Nguyễn Văn T có quyền tới lui, thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định pháp luật 3. Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết do không có yêu cầu.

4. Về án phí: Chị Lê Nguyễn Ngọc T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chị T đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004043 ngày 02/10/2020 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện C. Xem như chị T đã thi hành xong phần án phí.

5. Chị Lê Nguyễn Ngọc T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; anh Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

6. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về