Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 167/2020/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2020, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2020, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1990. Địa chỉ: thôn H, xã H, huyện T, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh H - Luật sư, Văn phòng Luật sư B - Đoàn luật sư tỉnh Hải Dương. Địa chỉ:, Khu 1 Phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hồng S, sinh năm 1985.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: thôn H, xã H, huyện T, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: 44 KO - YAM - SHI, NARA, TO - H, QUẬN O - Nhật Bản. Vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của anh Sơn về việc giao, nhận các văn bản tố tụng tại Tòa án: Chị Phạm Thị M, sinh năm 1989. Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Hồng S kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện T, tỉnh Hải Dương vào ngày 14/7/2009. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do quan điểm và cách sống của vợ chồng không hợp nhau, anh S không chung thủy với chị, thường chơi bời, nhiều lần chị bị anh S đánh, đuổi. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng và không có biện pháp tháo gỡ, gia đình hai bên đã khuyên giải nhưng không có kết quả. Năm 2017 anh S đi lao động ở Nhật Bản và vợ chồng không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh S theo quy định.

Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là Nguyễn Anh V, sinh ngày 22/12/2009 và cháu Nguyễn Diệu O, sinh ngày 03/02/2014, hiện đang ở với chị H và chị có nguyện được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung cho đến khi các con thành niên. Chị tự nguyện không yêu cầu anh Sơn phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản, nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và các tài liệu khác do anh S gửi về, anh S xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh nhất trí ly hôn; nhất trí giao cả hai con chung là Nguyễn Anh V và Nguyễn Diệu O cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng, anh không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Về tài sản, nợ chung: anh S không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do anh đang ở nước ngoài nên ủy quyền cho chị Phạm Thị M giao nhận các văn bản tố tụng tại Tòa án và các vấn đề khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án và anh đề nghị Tòa án sớm đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản lấy lời khai chị Phạm Thị M xác định, chị vẫn nhất trí nhận sự ủy quyền của anh Sơn về việc giao nhận các văn bản tố tụng tại Tòa án và các vấn đề khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, chị đã thông báo cho anh Sơn biết, anh S vẫn giữ nguyên quan điểm như anh đã trình bày.

Tại Kết luận giám định số 11/KLGĐ-PC09 ngày 30/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Dấu vân tay in trong các tài liệu do anh S gửi từ Nhật Bản về với dấu vân tay trên các tài liệu mẫu so sánh do là của cùng một người.

Con chung là Nguyễn Anh V có nguyện vọng được ở với chị H.

Tòa án xác minh tại địa phương nơi chị H và anh S đăng ký kết hôn và sinh sống thể hiện: Quá trình chung sống vợ chồng chị H và anh S có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không tin tưởng nhau, chị H cũng đã chuyển đi nơi khác sinh sống, không ở gia đình chồng. Nay chị H có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật. Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên, bị đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 51, 56; 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị H ly hôn anh Nguyễn Hồng S. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Anh V và Nguyễn Diệu O cho chị Hương trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các con thành niên (tròn 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Chị H phải chịu án phí dân sư sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Phạm Thị H sinh sống tại Việt Nam, anh Nguyễn Hồng S có địa chỉ trước khi xuất cảnh ở thôn H, xã H, huyện T, tỉnh Hải Dương, hiện anh S đang sinh sống và làm việc tại Nhật Bản. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Mặc dù, anh Sơn không về Việt Nam tham gia tố tụng nhưng anh đã gửi các tài liệu gồm: Bản tự khai; giấy ủy quyền; văn bản đề nghị được giải quyết vắng mặt. Tòa án đã trưng cầu giám định dấu vân tay trong các tài liệu này và có kết luận giám định dấu vân tay trong các tài liệu do anh S gửi về và dấu vân tay trong tài liệu mẫu so sánh là của cùng một người. Do vậy khẳng định đúng ý chí, quan điểm của anh S. Quá trình giải quyết vụ án, cả chị H và anh S đều đề nghị Tòa án mở phiên họp công khai chứng cứ, hòa giải và đưa vụ án ra xét xử sớm hơn thời gian đã ấn định tại thông báo về việc thụ lý vụ án. Do vậy, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải cũng như ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sớm hơn thời gian đã ấn định tại thông báo thụ lý vụ án. Các đương sự đều đề nghị xét xử vắng mặt. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị H là ông Nguyễn Thanh H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và gửi HĐXX Luận cứ bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Hồng S kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hà Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương vào ngày 14/7/2009, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, quan điểm sống bất đồng, cả anh S và chị H đều không có sự tin tưởng nhau, nghi ngờ có quan hệ nam nữ ngoài vợ, ngoài chồng. Từ đó vợ chồng không ai quan tâm đến ai và đã sống ly thân từ lâu. Nay chị H và anh S cùng xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên đều đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. HĐXX xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh S đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Phạm Thị H ly hôn anh Nguyễn Hồng S là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về quan hệ nuôi con: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Hồng S có hai con chung là Nguyễn Anh V, sinh ngày 22/12/2009 và Nguyễn Diệu O, sinh ngày 03/02/2014, hiện các con chung đang ở với chị H. Xét thấy con chung của anh, chị hiện vẫn còn nhỏ, cháu Nguyễn Anh V có nguyện vọng được ở với chị H. Mặt khác anh Sơn đang ở nước ngoài, không có mặt ở Việt Nam, anh cũng nhất trí giao con cho chị H chăm sóc nuôi dưỡng. HĐXX chấp nhận giao con chung Nguyễn Anh V và Nguyễn Diệu O cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng cho con.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Hương, anh Sơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Sau này nếu các đương sự có yêu cầu giải quyết về tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn thì có quyền làm đơn đề nghị Tòa án có thẩm quyền giải quyết bằng vụ án khác.

[3]. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Hương tự nguyện chịu toàn bộ chi phí giám định và không yêu cầu Tòa án giải quyết, do vậy HĐXX không xem xét giải quyết.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị H ly hôn anh Nguyễn Hồng S.

2. Về quan hệ nuôi con: Xử giao cho chị Phạm Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con chung là Nguyễn Anh V, sinh ngày 22/12/2009 và Nguyễn Diệu O, sinh ngày 03/02/2014 cho đến khi các con tròn 18 tuổi trưởng thành. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng cho con.

Không ai được cản trở anh Nguyễn Hồng S thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0002782 ngày 07 tháng 7 năm 2020 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Hồng S được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn 

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về