Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 744/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 268/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 200/2020/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị H, sinh năm 1989; nơi cư trú: Thôn Q, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng H, sinh năm 1983; nơi cư trú: Thôn Q, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Đoàn Thị H là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Chị kết hôn với anh Nguyễn Trọng H trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 02 tháng 11 năm 2015. Sau lễ cưới, chị về chung sống cùng với anh H tại thôn Q, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng ở nhà của bố mẹ đẻ anh H. Cuộc sống chung vợ chồng chỉ hòa thuận được một thời gian ngắn thì đã bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng trong sinh hoạt, anh H thiếu quan tâm chăm sóc gia đình và không chung thủy trong quan hệ vợ chồng. Chị H đã về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 4 năm 2020, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Gia đình hai bên đã động viên, hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Nguyễn Trọng H. Chị H và anh H có hai con chung tên Nguyễn Minh K sinh ngày 15 tháng 10 năm 2016 và Nguyễn Quỳnh T sinh ngày 17 tháng 10 năm 2019. Kể từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, anh H là người trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Minh K và chị H trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Quỳnh T. Khi ly hôn, chị H đề nghị Tòa án giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay. Chị và anh H tự thỏa thuận về cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, chị và anh H có tài sản chung, nhưng để chị và anh H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản.

Anh Nguyễn Trọng H là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác, song đến ngày mở phiên tòa anh H vẫn không có văn bản trình bày ý kiến về việc chị Đoàn Thị H xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Đoàn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Trọng H; đề nghị giao con Nguyễn Minh K sinh ngày 14 tháng 6 năm 2012 cho anh Nguyễn Trọng H trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Nguyễn Quỳnh T sinh ngày 17 tháng 10 năm 2019 cho chị Đoàn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng Bị đơn là anh Nguyễn Trọng H đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu của chị Đoàn Thị H ly hôn với anh Nguyễn Trọng H Chị H và anh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, kết hôn giữa chị H và anh H là hợp pháp. Tài liệu xác minh thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, vợ chồng không còn tin tưởng nhau về mặt tình cảm nên thường xuyên xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2020 cho đến nay. Gia đình và bạn bè đã động viên khuyên bảo nhiều lần nhưng không có kết quả. Chị H xin ly hôn, anh H vắng mặt tại các buổi hòa giải và tại phiên tòa thể hiện anh H không quan tâm đến việc hàn gắn quan hệ vợ chồng, điều này cho thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H xin ly hôn anh H.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị H và anh H có 02 con chung tên Nguyễn Minh K sinh ngày 15 tháng 10 năm 2016 và Nguyễn Quỳnh T sinh ngày 17 tháng 10 năm 2019. Khi ly hôn, chị H đề nghị được trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Quỳnh T và để anh H trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Minh K. Xét thấy, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, chị H là người trực tiếp nuôi con Nguyễn Quỳnh T và anh H trực tiếp nuôi con Nguyễn Minh K; việc nuôi dưỡng đã ổn định, con chung được chăm sóc, phát triển bình thường về tâm sinh lý. Chị H và anh H đều có công việc đảm bảo thu nhập ổn định để nuôi con. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, điều kiện, hoàn cảnh của chị H, của anh H, Hội đồng xét xử xét giao cho chị Đoàn Thị H trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Quỳnh T sinh ngày 17 tháng 10 năm 2019, giao cho anh Nguyễn Trọng H trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Minh K sinh ngày 15 tháng 10 năm 2016 là phù hợp.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết và anh H cũng không có quan điểm về cấp dưỡng nuôi con. Xét đề nghị của đương sự là tự nguyện nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về cấp dưỡng nuôi con trong vụ án này.

[4] Về tài sản chung, chị Đoàn Thị H khai vợ chồng có tài sản chung nhưng không yêu cầu Tòa án giải quyết; mặt khác không có quan điểm của anh Nguyễn Trọng H về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[5] Về án phí, chị Đoàn Thị H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,

- Cho chị Đoàn Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Trọng H.

- Giao cho chị Đoàn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Quỳnh T sinh ngày 17 tháng 10 năm 2019, giao cho anh Nguyễn Trọng H trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Minh K sinh ngày 15 tháng 10 năm 2016 cho đến khi các con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Chị Đoàn Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0002389 ngày 16/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Đoàn Thị H đã nộp đủ án phí.

- Chị Đoàn Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Trọng H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về