Bản án 03/2021/DS-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 03/2021/DS-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 511/2020/TLST-DS, ngày 03 tháng 7 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 174/2020/QĐXXST-DS, ngày 25/11/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 1307/2020/QĐST-DS, ngày 22/12/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Lê Văn T, sinh năm 1953.

Địa chỉ: 127 Nguyễn Văn L, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Ngọc A, sinh năm 1973. Địa chỉ: Đường 30/4, phường T, thành phố H, tỉnh Đồng Nai. Văn bản ủy quyền ngày 17/3/2020. Có mặt.

Bị đơn: Công ty TNHH MTV KH.

Địa chỉ: Khu phố NH, phường HH, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hoàng T1, sinh năm 1984. Địa chỉ: Khu phố NH, phường HH, thành phố H, tỉnh Đồng Nai. chức vụ: Chủ tịch Công ty kiêm Giám đốc. Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Hoàng T1, sinh năm 1984. Địa chỉ: Khu phố NH, phường HH, thành phố H, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn do ông Trương Ngọc A là người đại diện hợp pháp trình bày:

Vào năm 2017, ông Lê Văn T mua 01 máy đào đất hiệu Solar 330 đời 1996 giá 550 triệu đồng của Công ty TNHH MTV KH do ông Nguyễn Hoàng T1 là giám đốc trực tiếp bán. Việc mua bán này là mua bán trực tiếp, không lập hợp đồng gì. Ngoài ra ông T còn mua 01 máy đào đất khác hiệu Mitsubishi 07 đời 1984 của người khác giá 550 triệu đồng về để sử dụng.

Do đã lớn tuổi, không còn nhu cầu sử dụng nữa, nên ngày 15/4/2019 ông T bán 02 máy này cho Công ty TNHH MTV KH do ông Nguyễn Hoàng T1 là Giám đốc đại diện đứng ra mua với giá là 700 triệu đồng. Việc mua bán này là trực tiếp, không lập hợp đồng giấy tờ gì. Ông T đã bàn giao 02 xe và đã nhận số tiền 300 triệu đồng, số tiền mà Công ty TNHH MTV KH còn thiếu lại là 400 triệu đồng. Để xác nhận số tiền còn nợ trên thì ông Nguyễn Hoàng T1 viết tay “Giấy mượn tiền”, xác nhận số tiền còn thiếu của ông Lê Văn T là 400 triệu đồng, hẹn đến tháng 10/2019 sẽ trả xong số tiền còn thiếu này. Đây chính là số tiền mua bán xe còn thiếu chứ giữa ông Lê Văn T và cá nhân ông Nguyễn Hoàng T1 không có quan hệ vay mượn tiền gì.

Do Công ty TNHH MTV KH không thanh toán số tiền còn thiếu cho ông Lê Văn T như thỏa thuận, nên ngày 15/10/2019, ông T1 viết tay “Giấy mua xe” có đóng mộc của Công ty TNHH MTV KH, xác nhận nội dung mua bán xe giữa ông Lê Văn T và Công ty TNHH MTV KH, đồng thời tiếp tục cam kết sẽ trả nốt số tiền còn thiếu nợ ông T trong vòng 03 tháng. Tuy nhiên hết thời hạn 03 tháng như cam kết thì Công ty TNHH MTV KH không thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận. Ông T đã liên hệ trực tiếp với ông Nguyễn Hoàng T1 để yêu cầu thanh toán nhưng ông T1 vẫn không trả. Do đó, ông Lê Văn T khởi kiện, yêu cầu Công ty TNHH MTV KH có trách nhiệm thanh toán cho ông số tiền mua bán xe còn thiếu là 400 triệu đồng, không yêu cầu lãi suất.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thông báo đưa ông Nguyễn Hoàng T1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; tiến hành thủ tục niêm yết các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng bị đơn -Công ty TNHH MTV KH và cá nhân ông Nguyễn Hoàng T1 đều vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến và không tiến hành hòa giải giữa các bên đương sự được. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn và ông Nguyễn Hoàng T1 vẫn vắng mặt.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai:

-Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

-Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về án phí bị đơn phải chịu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Ông Lê Văn T khởi kiện tranh chấp hợp đồng mua bán xe; bị đơn là Công ty TNHH MTV KH có địa chỉ tại khu phố NH, phường HH, thành phố H, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan hệ pháp luật: Giữa ông Lê Văn T và Công ty TNHH MTV KH do ông Nguyễn Hoàng T1 là Chủ tịch Công ty kiêm Giám đốc giao dịch hợp đồng bằng lời nói mua bán 02 xe đào đất hiệu Solar 330 đời 1996 và Mitsubishi 07 đời 1984 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, mục đích và nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định tại các Điều 116, 117 Bộ luật dân sự năm 2015 nên có giá trị pháp lý, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng, xác định đây là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.

Trong vụ án này, ông Lê Văn T là nguyên đơn; Công ty TNHH MTV KH là bị đơn; ông Nguyễn Hoàng T1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Về thủ tục tố tụng: Bị đơn -Công ty TNHH MTV KH và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan-ông Nguyễn Hoàng T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Nguyên đơn ông Lê Văn T khởi kiện, yêu cầu Tòa án buộc bị đơn Công ty TNHH MTV KH có trách nhiệm thanh toán số tiền mua bán xe còn thiếu là 400 triệu đồng, không yêu cầu lãi suất. Nguyên đơn cung cấp 01 bản chính giấy viết tay “Giấy mượn tiền” đề ngày 15/4/2019 và 01 bản chính giấy viết tay “Giấy mua xe” đề ngày 15/10/2019 để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn khẳng định số tiền 400 triệu này là tiền mà bị đơn Công ty TNHH MTV KH còn thiếu khi mua 02 chiếc xe của nguyên đơn, không phải tiền nợ cá nhân giữa ông Lê Văn T và ông Nguyễn Hoàng T1.

Hội đồng xét xử nhận thấy, việc giữa ông Lê Văn T và và Công ty TNHH MTV KH giao dịch mua bán tài sản là 02 xe đào đất hiệu Solar 330 đời 1996 và Mitsubishi 07 đời 1984 là có thật. Điều này thể hiện qua việc ngày 15/10/2019, ông Nguyễn Hoàng T1 là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH MTV KH viết tay “Giấy mua xe”, có đóng mộc của Công ty TNHH MTV KH, xác nhận nội dung mua bán xe, xác nhận số tiền còn thiếu lại là 400.000.000đ (bốn trăm triệu đồng), cam kết thực hiện nghĩa vụ trả tiền trong vòng 03 tháng nhưng không thực hiện. Theo kết quả do Phòng Đăng ký kinh doanh-Sở kế hoạch và Đầu tư cung cấp thì Công ty TNHH MTV KH đang hoạt động tại địa chỉ số148A/A2, khu phố Nhị Hòa, phường Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; người đại diện theo pháp luật là ông Nguyễn Hoàng T1, chức danh: Chủ tịch kiêm Giám đốc. Cần chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Công ty TNHH MTV KH có trách nhiệm thanh toán cho ông Lê Văn T số tiền 400.000.000đ (bốn trăm triệu đồng).

[3] Về án phí:

Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

Ông Lê Văn T là người cao tuổi theo quy định tại Điều 2 Luật người cao tuổi, có đơn xin miễn tạm ứng án phí nên được miễn nộp tiền tiền tạm ứng án phí Tòa án theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án .

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[5] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

-Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 235, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

-Căn cứ các Điều 116, 117, 118, 119, 357, 385, 430, 440, 688 Bộ luật dân sự năm 2015;

-Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn T.

Buộc Công ty TNHH MTV KH có trách nhiệm thanh toán cho ông Lê Văn T số tiền 400.000.000đ (bốn trăm triệu đồng).

2. Về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án:

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi bên có nghĩa vụ thi hành xong nghĩa vụ trả tiền, trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự sự năm 2015; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự sự năm 2015.

3. Về án phí:

- Công ty TNHH MTV KH phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

ng Lê Văn T là người cao tuổi theo quy định tại Điều 2 Luật người cao tuổi, có đơn xin miễn tạm ứng án phí nên được miễn nộp tiền tiền tạm ứng án phí Tòa án theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án .

4.Về quyền kháng cáo: Ông Lê Văn T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Công ty TNHH MTV KH và ông Nguyễn Hoàng T1 vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/DS-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:03/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về