Bản án 03/2021/DS-ST ngày 14/04/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 03/2021/DS-ST NGÀY 14/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 14 tháng 4 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 163/2020/TLST- DS ngày 23 tháng 11 năm 2020 về Tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/QĐXXST-DS ngày 24 tháng 02 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 10/2021/QĐST-DS ngày 24 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Đ (tên viết tắt D); Địa chỉ:130 P, phường 03, quận P1, thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện theo pháp luật: Ông Võ Minh T - Chức danh: Chủ tịch hội đồng quản trị D.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H - Chức vụ: Giám đốc D Chi nhánh Hải Phòng - Phòng giao dịch Thủy Nguyên; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 05-QĐ/D-TNN1 và số 265/QĐ-D-PC cùng ngày 28/02/2020 và số 11/QĐ-D-HĐQT ngày 24/01/2019); có mặt.

- Bị đơn: Chị Trịnh Thị H1 sinh năm 1989; Địa chỉ: Thôn 6, xã K, huyện T1, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Duy L sinh năm 1989; Địa chỉ: Thôn 6, xã K, huyện T1, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 02 tháng 11 năm 2020 cùng các lời khai tại Tòa án và tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:

Theo đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn ngày 15/8/2017 chị Trịnh Thị H1 đề nghị vay của D số tiền 30.000.000 đồng và anh Phạm Duy L bảo lãnh cam kết trong trường hợp chị Trịnh Thị H1 không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ hàng kỳ cho D thì anh Phạm Duy L sẽ trả nợ thay cho chị Trịnh Thị H1 đến khi trả hết nợ vay tại D. Ngày 07/9/2017 chị Trịnh Thị H1 có ký Hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 006965120131183601T17026 (gọi tắt là Hợp đồng tín dụng) với D vay số tiền là 30.000.000 đồng, mục đích vay tiêu dùng bổ sung vốn phát triển kinh tế hộ gia đình, thời hạn vay là 24 tháng, vay ngày 07/9/2017 đến hạn ngày 07/9/2019, lãi suất là 9,5%/năm và lãi suất quá hạn bằng 150% so với lãi suất trong hạn, phương thức trả nợ là trả nợ gốc và nợ lãi hàng tháng thành 24 kỳ, vào ngày 07 hàng tháng một kỳ là 1.500.000 đồng, số tiền thanh toán kỳ cuối là 1.200.000 đồng, ngày thanh toán đầu tiên 07/10/2017. Thực hiện Hợp đồng tín dụng đã ký, D đã giải ngân cho bên vay là chị Trịnh Thị H1 số tiền vay là 30.000.000 đồng. Quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng, chị Trịnh Thị H1 đã trả được 12.529.000 đồng tiền gốc và 3.971.000 đồng tiền lãi trong hạn, vi phạm nghĩa vụ trả nợ từ ngày 07/8/2018, cụ thể không trả nợ gốc và nợ lãi theo nội dung đã thỏa thuận. Sau khi chị Trịnh Thị H1 vi phạm nghĩa vụ trả nợ nguyên đơn đã làm việc với chị Trịnh Thị H1 yêu cầu trả nợ nhưng chị Trịnh Thị H1 không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Nay nguyên đơn đề nghị Tòa án giải quyết buộc chị Trịnh Thị H1 phải trả cho D số tiền nợ tính đến hết ngày 14/4/2021 là 26.093.622 đồng, trong đó: nợ gốc 17.471.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 1.729.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 6.893.622 đồng và tiền lãi phát sinh từ ngày 15/4/2021 đến ngày chị Trịnh Thị H1 thực trả hết nợ cho D theo lãi suất quá hạn được quy định tại Hợp đồng tín dụng đã ký ngày 07/9/2017, trường hợp chị Trịnh Thị H1 không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho D thì anh Phạm Duy L phải trả nợ thay cho chị Trịnh Thị H1 đến khi trả hết nợ vay tại D, chị Trịnh Thị H1 phải chịu mọi chi phí phát sinh tại Tòa án và Cơ quan thi hành án.

Bị đơn là chị Trịnh Thị H1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Phạm Duy L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng không trình bày quan điểm của mình.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng. Về việc giải quyết nội dung vụ án thì đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc chị Trịnh Thị H1 phải trả cho nguyên đơn nợ gốc, nợ lãi theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết, bị đơn phải chịu lãi suất chậm thi hành án và án phí dân sự sơ thẩm.

Về các tài liệu, chứng cứ và tình tiết của vụ án:

Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, các tình tiết mà các bên đã thống nhất: Về quan hệ hợp đồng tín dụng và lý do đề nghị Tòa án giải quyết quan hệ đó phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà đương sự giao nộp, phù hợp với tài liệu do Tòa án thu thập được, chị Trịnh Thị H1 và anh Phạm Duy L không có ý kiến gì nên thuộc trường hợp không phải chứng minh.

Các tình tiết mà các bên không thống nhất: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Tranh chấp hợp đồng tín dụng quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Bị đơn là chị Trịnh Thị H1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Phạm Duy L đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ khoản 3 Điều 228 và khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Trịnh Thị H1 và anh Phạm Duy L.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, công bố công khai tại phiên tòa, lời trình bày của nguyên đơn xác định ngày 15/8/2017 chị Trịnh Thị H1 đề nghị vay của D số tiền 30.000.000 đồng và anh Phạm Duy L đã bảo lãnh cam kết trong trường hợp chị Trịnh Thị H1 không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ hàng kỳ cho D thì anh Phạm Duy L sẽ trả nợ thay cho chị Trịnh Thị H1 đến khi trả hết nợ vay tại D, ngày 07/9/2017 chị Trịnh Thị H1 có ký Hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 006965120131183601T17026 (gọi tắt là Hợp đồng tín dụng) với D vay số tiền là 30.000.000 đồng, mục đích vay tiêu dùng bổ sung vốn phát triển kinh tế hộ gia đình, thời hạn vay là 24 tháng, vay ngày 07/9/2017 đến hạn ngày 07/9/2019, lãi suất là 9,5%/năm và lãi suất quá hạn bằng 150% so với lãi suất trong hạn, phương thức trả nợ là trả nợ gốc và nợ lãi hàng tháng thành 24 kỳ, vào ngày 07 hàng tháng một kỳ là 1.500.000 đồng, số tiền thanh toán kỳ cuối là 1.200.000 đồng, ngày thanh toán đầu tiên 07/10/2017. Thực hiện Hợp đồng tín dụng đã ký, D đã giải ngân cho bên vay là chị Trịnh Thị H1 số tiền vay là 30.000.000 đồng. Quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng, chị Trịnh Thị H1 đã trả được 12.529.000 đồng tiền gốc và 3.971.000 đồng tiền lãi trong hạn, vi phạm nghĩa vụ trả nợ từ ngày 07/8/2018, cụ thể không trả nợ gốc và nợ lãi theo nội dung đã thỏa thuận. Sau khi chị Trịnh Thị H1 vi phạm nghĩa vụ trả nợ nguyên đơn đã làm việc với chị Trịnh Thị H1 yêu cầu trả nợ nhưng chị Trịnh Thị H1 không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Đến hết ngày 14/4/2021 bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền là 26.093.622 đồng, trong đó: nợ gốc 17.471.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 1.729.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 6.893.622 đồng. Do vậy đủ cơ sở để chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả số tiền nợ trên cho nguyên đơn và tiền lãi phát sinh đến ngày thực trả hết nợ theo lãi suất quá hạn các bên đã thỏa thuận, trường hợp bị đơn không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn thì anh Phạm Duy L phải trả nợ thay cho bị đơn đến khi trả hết nợ vay.

[3] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm, nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 117, Điều 119, Điều 280, Điều 282, Điều 401, Điều 463, Điều 466, Điều 335, Điều 336, Điều 342 Bộ luật Dân sự; Điều 91, Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ (tên viết tắt D), buộc chị Trịnh Thị H1 phải trả cho D số tiền nợ là 26.093.622 đồng, trong đó: nợ gốc 17.471.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 1.729.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 6.893.622 đồng.

Kể từ ngày 15/4/2021 khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Trong trường hợp chị Trịnh Thị H1 không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ thì anh Phạm Duy L phải trả nợ thay cho chị Trịnh Thị H1 đến khi trả hết nợ vay.

2. Về án phí: Chị Trịnh Thị H1 phải chịu 1.305.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại Ngân hàng thương mại cổ phần Đ số tiền tạm ứng án phí 624.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015559 ngày 23 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/DS-ST ngày 14/04/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:03/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về