Bản án 03/2021/DS-ST ngày 01/03/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ A - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 03/2021/DS-ST NGÀY 01/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 01/3/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Gia Lai mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 97/2020/TLST-DS ngày 11/11/2020, “Về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-DS ngày 15/01/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2021/QĐST-DS ngày 08/02/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Võ Thị T, sinh năm 1957; địa chỉ: Tổ B, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn P, sinh năm 1971 và chị Lê Thị H, sinh năm 1977;

cùng địa chỉ: Tổ B, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Võ Thị T trình bày: Vào ngày 08/11/2018 âm lịch, chị Lê Thị H và anh Lê Văn P có vay của bà Võ Thị T số tiền là 40.000.000đồng, mục đích để đầu tư làm ăn. Sau đó, ngày 11/11/2018 âm lịch chị H và anh P tiếp tục vay của bà T số tiền 20.000.000đồng và ngày 19/11/2018 âm lịch, vay số tiền là 80.000.000đồng. Tổng cộng số tiền mà chị H và anh P đã vay của bà T là 140.000.000đồng, đã trả cho bà T được số tiền 20.000.000đồng, còn nợ lại số tiền 120.000.000đồng. Bà T đã nhiều lần yêu cầu trả nợ, nhưng đến nay chị H và anh P vẫn không trả số tiền còn nợ. Vì vậy, bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị H và anh P phải trả tổng số tiền còn nợ là 120.000.000đồng. Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, bà T trình bày trong các lần vay tiền chỉ có chị H là người trực tiếp vay tiền và ký giấy vay tiền, anh P không trực tiếp vay và không biết việc vay tiền. Do đó, bà T thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu chị Lê Thị H phải trả tổng số tiền gốc còn nợ là 120.000.000đồng, bà T không yêu cầu tiền lãi.

* Bị đơn chị Lê Thị H và anh Lê Văn P mặc dù đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, nhiều lần Tòa án triệu tập đến hòa giải, triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do nên không có ý kiến trình bày về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã A tham gia phiên tòa: Có đủ chứng cứ để chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử buộc chị Lê Thị H phải trả cho bà Võ Thị T tổng số tiền 120.000.000đồng. Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 6.000.000đồng, hoàn trả lại cho bà Tiễn 3.000.000đồng tiền tạm ứng áp phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Võ Thị T khởi kiện đối với anh Lê Văn P và chị Lê Thị H; cùng địa chỉ: Tổ B, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai, yêu cầu anh P và chị H phải trả số tiền đã vay. Theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì đây là vụ án tranh chấp về hợp đồng vay tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Gia Lai. Bị đơn anh Lê Văn P và chị Lê Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Lê Văn P và chị Lê Thị H.

[2] Về nội dung: Theo yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị T, cùng với việc cung cấp chứng cứ là các “Giấy mượn tiền” đề ngày 08/11/2018 âm lịch, ngày 11/11/2018 âm lịch và ngày 19/11/2018 âm lịch, chị Lê Thị H có vay của bà Võ Thị T tổng số tiền 140.000.000đồng. Trong các lần vay tiền đều do chị Lê Thị H trực tiếp vay và ký tên xác nhận nợ vào các giấy vay tiền nên bà T yêu cầu chị H phải có nghĩa vụ trả số tiền đã vay. Vậy, có đủ cơ sở xác định chị Lê Thị H có vay của bà Võ Thị T tổng số tiền là 140.000.000đồng, đã trả được số tiền 20.000.000đồng, còn nợ lại số tiền 120.000.000đồng.

[3] Theo các giấy mượn tiền các bên không ghi thời hạn trả nợ, không ghi lãi suất cụ thể, nên đây là hợp đồng vay không kỳ hạn và không có lãi. Bà T đòi nợ nhiều lần nhưng chị H chỉ trả được số tiền 20.000.000đồng, còn nợ lại tổng số tiền 120.000.000đồng, nên bà T khởi kiện là có căn cứ đúng theo quy định tại các Điều 463, 466 và Điều 469 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc chị Lê Thị H phải trả cho bà Võ Thị T tổng số tiền gốc còn nợ là 120.000.000đồng, bà T không yêu cầu trả tiền lãi của số nợ trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thì bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận. Như vậy, chị Lê Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 120.000.000đồng x 5% = 6.000.000đồng. Bà Võ Thị T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 235; các Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 463, 466 và Điều 469 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

2. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị T.

- Buộc chị Lê Thị H phải trả cho bà Võ Thị T tổng số tiền gốc còn nợ là 120.000.000đồng (Một trăm hai mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí: Buộc chị Lê Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là: 6.000.000đồng (Sáu triệu đồng). Bà Võ Thị T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại cho bà Võ Thị T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.000.000đồng theo biên lai thu tiền số 0004564 ngày 11/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A, tỉnh Gia Lai.

4. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (01/3/2021), các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Thời hạn trên đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/DS-ST ngày 01/03/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:03/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã An Khê - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 01/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về