Bản án 03/2020/HS-ST ngày 26/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SL

BẢN ÁN 03/2020/HS-ST NGÀY 26/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo:

TVH, sinh ngày 20/5/1988, tại HT, ML, SL; Nơi ĐKHKTT: Bản M, xã HT, huyện ML, tỉnh SL; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tòng Văn B đã chết và con bà Lò Thị S; có vợ là Vì Thị H, sinh 1982, có 02 con lớn nhất sinh 2010 nhỏ nhất sinh 2013; Tiền án, tiền sự; nhân thân: không có án tích; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/6/2020; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

QVC, sinh ngày 06/01/2000, tại CL, ML, SL; Nơi ĐKHKTT: Bản NN, xã CL, huyện ML, tỉnh SL; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quàng Văn M đã chết và con bà Lò Thị L; chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự; nhân thân: không có án tích; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2020; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

LVQ, sinh ngày 25/3/1995, tại CL, ML, SL; Nơi ĐKHKTT: Bản NN, xã CL, huyện ML, tỉnh SL; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc:

Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn S, sinh năm 1968 và con bà Lò Thị H, sinh năm 1968; chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự; nhân thân: không có án tích; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2020; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo TVH: Ông Lường Duy Tuyên, Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm Trợ giúp viên pháp lý nhà nước, tỉnh SL. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông LVS, địa chỉ: Bản NN, xã CL, huyện ML, tỉnh SL. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Các bị cáo TVH, QVC, LVQ bị Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào hồi 17 giờ 20 phút ngày 12/6/2020, tại bản Nhạp, xã CL, huyện ML, tỉnh SL, Công an phát hiện và bắt quả tang QVC, sinh ngày 06/01/2000 và LVQ, sinh ngày 25/3/1995, đều ở bản NN, xã CL, huyện ML, tỉnh SL đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ:

01 gói được gói bên ngoài bằng ni lon màu xanh bên trong có chứa cục bột màu trắng, do QVC tự giác đưa từ tay phải giao nộp, QVC và LVQ khai là Heroine mua của TVH mục đích để sử dụng:

01 chiếc xe môtô nhãn hiệu YAMAHA Exciter, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 26B2-288.22. Thu giữ của LVQ.

Ngày 13/6/2020 cơ quan Công an đã thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định, kết quả:

01 gói được gói bên ngoài bằng ni lon màu xanh bên trong có chứa cục bột màu trắng, do QVC tự giác đưa từ tay phải giao nộp, QVC và LVQ khai là Heroine mua của TVH mục đích để sử dụng có khối lượng 0,22 gam, lấy 0,22 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu CQ:

Cơ quan Công an huyện ML ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và loại ma túy.

Tại Kết luận giám định số: 1004/KLGĐ ngày 16/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL, kết luận: Mẫu ký hiệu QC là chất ma túy, loại chất Heroine, khối lượng giám định QC là 0,22 gam; khối lượng ma túy thu giữ là 0,22 gam Heroine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo QVC và LVQ không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Vào hồi 17 giờ 00 phút ngày 19/6/2020, tại bản M, xã HT, huyện ML, tỉnh SL Công an phát hiện và bắt quả tang TVH, sinh ngày 20/5/1988 đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ:

01 gói được gói bên ngoài bằng giấy trắng có chữ, bên trong có chứa 01 gói được gói bằng ni lon màu trắng bên trong có chứa cục bột màu trắng, do TVH tự giác lấy từ trên gác xép trong buồng ngủ nhà của TVH giao nộp, khai nhằm mục đích để sử dụng.

Ngày 20/6/2020 cơ quan Công an đã thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định, kết quả:

01 gói được gói bên ngoài bằng giấy trắng có chữ, bên trong có chứa 01 gói được gói bằng ni lon màu trắng bên trong có chứa cục bột màu trắng, do TVH tự giác lấy từ trên gác xép trong buồng ngủ nhà của TVH giao nộp có khối lượng 0,16 gam, lấy 0,16 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu H:

Cơ quan Công an huyện ML ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và loại ma túy.

Tại Kết luận giám định số: 1040/KLGĐ ngày 23/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL, kết luận: Mẫu ký hiệu H là chất ma túy, loại chất Heroine, khối lượng giám định H là 0,16 gam; khối lượng ma túy thu giữ là 0,16 gam Heroine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo TVH, người bào chữa không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Quá trình điều tra TVH, QVC, LVQ khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 12/6/2020 TVH đi ra bản Pi, xã Pi Toong, huyện ML, tỉnh SL, tại đây TVH có mua của một người đàn ông dân tộc thái không biết tên và địa chỉ 01 gói Heroine với giá 300.000, đồng, sau đó TVH đi về nhà bỏ ma túy ra sử dụng một ít còn lại cất giấu dưới đệm. Chiều ngày 12/6/2020 TVH đang ở nhà có QVC, LVQ đến mua ma túy, TVH bán cho LVQ 01 gói Heroine với giá 300.000, đồng. Số tiền bán ma túy cho LVQ, TVH đã chi tiêu 100.000, đồng, số còn lại vào ngày 19/6/2020 TVH đi ra bản Pi, xã Pi Toong, huyện ML, tỉnh SL, tại đây TVH có mua của một người đàn ông dân tộc thái không biết tên và địa chỉ 01 gói Heroine với giá 200.000, đồng mang về cất giấu trên gác xép để sử dụng, hồi 17 giờ 00 phút ngày 19/6/2020 Công an phát hiện và bắt quả tang cùng vật chứng.

QVC, LVQ sau khi mua được ma túy từ nhà của TVH, đèo nhau về đến khu vực bản Nhạp, xã CL, huyện ML, tỉnh SL, khoảng hồi 17 giờ 20 phút ngày 12/6/2020 Công an phát hiện và bắt quả tang cùng vật chứng.

Về nguồn gốc ma túy TVH khai mua của người đàn ông dân tộc thái không biết tên, địa chỉ với số tiền 500.000, đồng. Không có căn cứ điều tra về người bán ma túy, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của TVH.

Đối với hành vi của TVH khi trao đổi để mua bán ma túy thì chỉ một mình LVQ và TVH trao đổi mua bán, do đó không đủ căn cứ xác định tình tiết phạm tội đối với hai người trở lên cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo:

QVC, LVQ đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

TVH đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và “Mua bán trái phép chất ma tuý” Bản cáo trạng số: 73/CT-VKSML ngày 05 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố các bị cáo: QVC và LVQ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. TVH về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo QVC và LVQ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt: QVC từ 18 đến      24 tháng tù; LVQ từ 18 đến 24 tháng tù.

Tuyên bố bị cáo TVH phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo TVH từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015: Tổng hợp hình phạt của hai tội.

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với các bị cáo do không có tài sản.

Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Vật chứng đối với TVH:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 vỏ phong bì niêm phong cũ; 01 mảnh giấy trắng có chữ; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định; 0,11 gam Heroine (02 phong bì đều được niêm phong):

Vật chứng đối với QVC, LVQ:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 vỏ phong bì niêm phong cũ; 01 mảnh nilon màu xanh:

01 phong bì cũ gửi giám định; 0,13 gam Heroine (02 phong bì đều được niêm phong):

Đối với 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu YAMAHA Exciter, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 26B2-288.22. Thu giữ của LVQ khi sử dụng để mua ma túy. Căn cứ đơn đề nghị của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông LVS xác định chiếc xe của gia đình, việc LVQ sử dụng để mua ma túy gia đình không biết, cần trả lại cho ông LVS.

Đối với số tiền do mua bán mà có mà TVH đã sử dụng hết cần buộc nộp truy thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 300.000, đồng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Tòa án.

Các bị cáo phải chịu án 200.000, đồng phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên Quyết định truy tố. Các bị cáo, người bào chữa nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Người bào chữa phát biểu lời bào chữa đưa ra tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên toà bị cáo TVH thừa nhận: Chiều ngày 12/6/2020, tại nhà ở bản M, xã HT, huyện ML, tỉnh SL đã thực hiện hành vi bán trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,22 gam cho QVC và LVQ để lấy 300.000, đồng; đồng thời ngày 19/6/2020 cất giữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,16 gam mục đích để sử dụng, thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Thông báo kết quả giám định, lời khai của người mua ma túy.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo TVH đã thực hiện hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự và thực hiện hành vi cất giữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo TVH phạm nhiều tội cần căn cứ Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015 để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản nên không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

[3]. Tại phiên toà bị cáo QVC và LVQ thừa nhận: Hồi 17 giờ 20 phút ngày 12/6/2020, tại khu vực bản Nhạp, xã CL, huyện ML, tỉnh SL, hai người đang thực hiện hành vi cất giữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,22 gam, mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Nguồn gốc số 0,22 gam Heroine bị bắt giữ do mua được của TVH ở bản M, xã HT, huyện ML, tỉnh SL với số tiền 300.000, đồng.

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Thông báo kết quả giám định, lời khai của người bán ma túy.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo QVC và LVQ đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng, hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Xét về đồng phạm: Bị cáo QVC là chủ động rủ rê LVQ đi mua ma túy về cùng sử dụng. Các bị cáo đồng phạm giản đơn. Cần căn cứ Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt cho các bị cáo.

[4]. Hội đồng xét xử xét thấy: Tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục bị cáo.

[5]. Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo TVH, QVC, LVQ đều không có tiền án, tiền sự. Các bị cáo có nhân thân không tốt là đối tượng liên quan đến hoạt động ma túy. Tại phiên toà các bị cáo thật thà khai báo, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6]. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Vật chứng đối với TVH:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 vỏ phong bì niêm phong cũ; 01 mảnh giấy trắng có chữ; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định; 0,11 gam Heroine (02 phong bì đều được niêm phong):

Vật chứng đối với QVC, LVQ:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 vỏ phong bì niêm phong cũ; 01 mảnh nilon màu xanh:

01 phong bì cũ gửi giám định; 0,13 gam Heroine (02 phong bì đều được niêm phong):

Đối với 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu YAMAHA Exciter, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 26B2-288.22. Thu giữ của LVQ khi sử dụng để mua ma túy. Căn cứ đơn đề nghị của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông LVS xác định chiếc xe của gia đình, việc LVQ sử dụng để mua ma túy gia đình không biết, cần trả lại cho ông LVS.

Đối với số tiền do mua bán mà có mà TVH đã sử dụng hết cần buộc nộp truy thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 300.000, đồng.

Về nguồn gốc ma túy TVH khai mua của người đàn ông dân tộc thái không biết tên, địa chỉ với số tiền 500.000, đồng. Không có căn cứ điều tra về người bán ma túy, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của TVH, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về số ma túy.

Đối với hành vi của TVH khi trao đổi để mua bán ma túy thì chỉ một mình LVQ và TVH trao đổi mua bán, do đó không đủ căn cứ xác định tình tiết phạm tội đối với hai người trở lên cho bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo TVH phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo TVH 22 (hai mươi hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và 26 (hai mươi sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015: Tổng hợp hình phạt của hai tội. Buộc TVH phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 48 (bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/6/2020.

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo QVC phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Xử phạt bị cáo QVC 22 (hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2020.

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

3. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo LVQ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Xử phạt bị cáo LVQ 21 (hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2020.

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

4. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Vật chứng đối với TVH:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì thư niêm phong gửi giám định; 0,11 (không phẩy mười một) gam Heroine và 01 vỏ phong bì niêm phong cũ; 01 mảnh giấy trắng có chữ; 01 mảnh nilon màu trắng (02 phong bì đều được niêm phong).

Vật chứng đối với QVC, LVQ:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì cũ gửi giám định; 0,13 (không phẩy mười ba) gam Heroine và 01 vỏ phong bì niêm phong cũ; 01 mảnh nilon màu xanh (02 phong bì đều được niêm phong):

Trả lại cho ông LVS 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu YAMAHA Exciter, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 26B2-288.22, số khung RLCUG 0610 JY649743, số máy G3D4E676675, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc bên trong.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh SL.

Buộc TVH nộp truy thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 300.000, đồng (ba trăm nghìn đồng) do mua bán mà có đã chi tiêu hết.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Tòa án.

Bị cáo TVH, QVC, LVQ phải chịu mỗi người 200.000, đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 26/10/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HS-ST ngày 26/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về