Bản án 03/2020/HS-ST ngày 14/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỂU CẦN, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 03/2020/HS-ST NGÀY 14/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 02/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Kim Ph, sinh năm 1967 tại huyện T, tỉnh T. Nơi cư trú ấp Trung T, xã Tân H, huyện T, tỉnh T; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ văn hoá: không biết chữ; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Kim T, sinh năm 1932 (đã chết) và bà Kim Thị L, sinh năm 1939; có vợ và 02 con; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khởi nơi cư trú từ đầu cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Công ty Cổ phần Tr do ông Nguyễn Minh T chức vụ giám đốc xí nghiệp Rạch L thuộc công ty cổ phần Tr làm đại diện (theo văn bản ủy quyền ngày 07/11/2019) (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Tri Th, sinh năm 1988; Nơi cư trú: ấp C, xã Tân H, huyện T, tỉnh T (có mặt).

2. Ông Phạm Văn T; sinh năm 1974; Nơi cư trú: ấp C, xã Tân H, huyện T, tỉnh T (có mặt).

3. Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1985; Nơi cư trú: ấp C, xã Tân H, huyện T, tỉnh T (có mặt).

4. Ông Sơn X, sinh năm 1986; Nơi cư trú: ấp C, xã Tân H, huyện T, tỉnh T (có mặt).

- Người phiên dịch: Ông Kim Trường Mu N – Nơi công tác: Ban nhân dân ấp Cây H, xã P, huyện T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 00 giờ ngày 31/7/2019, sau khi uống rượu tại ấp Cây D, xã Hùng H, huyện T, tỉnh T, bị cáo Kim Ph đi về nhà. Khi về đến khu vực ấp C, xã Tân H, huyện T, tỉnh T, bị cáo nhìn vào cổng chính của Xí nghiệp Rạch L thuộc Công ty Cổ phần Tr không đóng cửa nên bị cáo đi vào cổng và đi thẳng vào gần xưởng ép bên trong Xí nghiệp nơi bị cáo làm việc hàng ngày. Lúc này, bị cáo nhìn thấy một tấm bạt được để trên xe cúc kích ở gần xưởng ép không có người trông coi, bị cáo quan sát xung quanh không thấy ai nên bị cáo kéo chiếc xe cúc kích cùng với tấm bạt trên đến khu vực hàng rào của Xí nghiệp bị hư hỏng, cách vị trí ban đầu khoảng hơn 10 mét và để xe cùng tấm bạt ở vị trí trên, rồi đi trở lại cổng chính ra Quốc lộ 54 và rẽ vào đường đanl ra phía sau đến vị trí mà bị cáo để xe cúc kích và tấm bạt. Bị cáo bước qua hàng rào của Xí nghiệp kéo chiếc xe và tấm bạt đi ra Quốc lộ 54 và tiếp tục kéo xe cùng tấm bạt để đi về nhà. Lúc này, anh Nguyễn Tri Th và anh Nguyễn Văn Tr đang ngồi nói chuyện tại nhà anh Th để chuẩn bị đi kéo cá thì phát hiện bị cáo đang kéo xe từ đường đanl đi ra hướng Quốc lộ 54, nên anh Th và anh Tr đuổi theo. Khi đến gần bị cáo, anh Th nhìn thấy chân bị cáo dính bùn, tấm bạt thì dính bụi tơ sơ dừa nên anh Th hỏi bị cáo “giờ này kéo xe gì mà khuya vậy?”, bị cáo trả lời “xe với tấm bạt là của bà già cho nên kéo về”, Th hỏi tiếp “nếu của bà già cho thì điện thoại cho bà già, đúng thì mới cho đi”, ngay sau đó bị cáo bỏ lại xe cúc kích và tấm bạt và chạy về hướng xã Hùng H, huyện T, Tr và Th chạy bộ đuổi theo, sau đó anh Nguyễn Văn S và anh Sơn X nghe thấy và cùng truy đuổi. Trong lúc chạy, bị cáo nhặt được một cục đá ven đường và nói “ai nhào vô tao chọi chết”, sau đó bị cáo chạy rẽ vào vườn dừa, lội qua kênh rồi chạy về nhà. Đến khoảng 7 giờ 30 phút, ngày 31/7/2019 ông Nguyễn Minh T là Giám đốc Xí nghiệp Rạch l thuộc Công ty cổ phần Tr phát hiện bị mất tài sản nên trình báo cơ quan Công an.

Qua xác minh Cơ quan Công an phát hiện Kim Ph là người thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trong vụ việc trên. Qua làm việc, bị cáo Kim Ph thừa nhận hành vi lấy trộm tấm bạt và xe cúc kích như đã nêu trên.

* Vật chứng tạm giữ gồm:

+ 01 (Một) xe cúc kích được làm từ sắt tròn rỗng phi 34 có kích thước ngang 0,6 mét x cao 1,3 mét và sắt tròn đặc phi 10 làm giá đỡ, sử dụng hai bánh bằng cao su đường kính bánh xe 0,3 mét;

+ 01 (Một) tấm bạt (màu xanh, loại dày) có kích thước ngang 08 mét, chiều dài 30 mét.

Tại kết luận định giá tài sản số: 11/KL.HĐ ngày 10/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Tiểu Cần kết luận:

Một xe cúc kích được gia công thành phẩm từ sắt tròn rỗng phi 34 có kích thước ngang 0,6 mét x cao 1,3 mét và sắt tròn đặc phi 10 làm giá đỡ, sử dụng 02 bánh bằng cao su, đường kính bánh 0,3 mét, giá trị tài sản còn lại là 520.000 đ.

Một tấm bạt (màu xanh, loại dày) có kích thước ngang 08 mét, chiều dài 30 mét theo giá thị trường tại thời điểm ngày 31/7/2019 có giá 2.460.000đ.

Tng giá trị tài sản trên 520.000 đồng + 2.460.000 = 2.980.000 đồng (Hai triệu chín trăm tám mươi nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKS-HS ngày 23 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh đã truy tố bị cáo Kim Ph về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiểu Cần đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, 65, 50 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Kim Ph phạm tội “ Trộm cắp tài sản” xử phạt bị cáo từ 06 (sáu) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 12 (mười hai) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 14/02/2020).

Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiểu Cần đã ra quyết định trả cho bị hại số tài sản bị mất nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về trách nhiệm dân sự: người bị hại công ty cổ phần Tr xác nhận đã nhận đủ tài sản bị mất và tài sản nhận lại không bị hư hỏng gì vì vậy không yêu cầu bị cáo phải tiếp tục bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: ông Nguyễn Minh T là đại diện cho người bị hại công ty cổ phần Tr có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Minh T.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thẩm tra các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thấy rằng các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đều đúng quy định của pháp luật, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại hoặc có ý kiến nào khác phản đối các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nên các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[3]. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa cũng như kết luận của Hội đồng định giá, sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh hiện trường và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Ph đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của công ty, bị cáo đã lén lút nhằm thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của xí nghiệp Rạch L thuộc công ty cổ phần Tr tài sản mà bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 2.980.000 đồng, với giá trị thiệt hại trên đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiểu Cần truy tố bị cáo Kim Ph về tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4]. Xét tính chất mức độ hành vi của bị cáo là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền được bảo hộ về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình nhưng vì động cơ tư lợi mà thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời góp phần vào việc phòng chống tội phạm nói chung như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở.

[5]. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo Hội đồng xét xử có xem xét bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải tài sản mất trộm đã trả lại cho người bị hại, đại diện cho người bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, không biết chữ, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, sau khi phạm tội bị cáo luôn chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Đây là những tình tiết để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ phù hợp với các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, i,s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra Công an huyện Tiểu Cần đã ra quyết định trả cho xí nghiệp Rạch L thuộc công ty Cổ phần Tr một xe cúc kích được làm từ sắt tròn rỗng phi 34 có kích thước ngang 0,6 mét x cao 1,3 mét và sắt tròn đặc phi 10 làm giá đỡ, sử dụng hai bánh bằng cao su đường kính bánh xe 0,3 mét và một tấm bạt (màu xanh, loại dày) có kích thước ngang 08 mét, chiều dài 30 mét đúng theo quy định của pháp luật. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[8] Về án phí: buộc bị cáo Kim Ph phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Kim Ph phạm tội “Trộm cắp tài sản ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm h, i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50 và Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Kim Ph 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 14/02/2020).

Giao bị cáo Kim Ph cho Ủy ban nhân dân xã Tân H, huyện T, tỉnh T giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Kim Ph thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, bị cáo Kim Ph cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Kim Ph phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại xí nghiệp Rạch L thuộc công ty Cổ phần Tr không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra Công an huyện Tiểu Cần đã ra quyết định trả cho xí nghiệp Rạch L thuộc công ty Cổ phần Tr một xe cúc kích được làm từ sắt tròn rỗng phi 34 có kích thước ngang 0,6 mét x cao 1,3 mét và sắt tròn đặc phi 10 làm giá đỡ, sử dụng hai bánh bằng cao su đường kính bánh xe 0,3 mét và một tấm bạt (màu xanh, loại dày) có kích thước ngang 08 mét, chiều dài 30 mét đúng theo quy định của pháp luật. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Kim Ph phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại Uỷ ban nhân dân xã (phường) nơi đương sự cư trú để xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 , 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HS-ST ngày 14/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiểu Cần - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về