Bản án 03/2020/HS-ST ngày 07/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 03/2020/HS-ST NGÀY 07/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 433/2019/TLST-HS ngày 20/12/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 390/2019/QĐXXST-HS ngày 25/12/2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Đ; sinh năm: 1986; tại: TP. Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: Ấp a, xã b, huyện C, Thành phố H; nơi cư trú: Không nơi ở nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn L; và bà: Võ Thị K (C); vợ: Hoàng Thị Thùy D; có 02 con (sinh năm 2014, 2016); tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày: 09/9/2019. (Có mặt) - Bị hại: Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1988, địa chỉ: a đường b, khu phố c, phường L, quận T, Thành phố H. (Vắng mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1986, địa chỉ: a tỉnh lộ b, ấp H, xã T, huyện C, Thành phố H. (Vắng mặt)

2. Chị Hoàng Thị Thùy D, sinh năm: 1990, địa chỉ: Ấp a, xã b, huyện C, Thành phố H.. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Ngày 16/8/2019, Nguyễn Văn Đ đến phòng trọ của anh Nguyễn Minh T, tại địa chỉ: a đường b, khu phố c, phường L, quận T, Thành phố H để nhậu. Do trời mưa nên Đ nói với anh T ngủ lại phòng trọ của anh T. Khoảng 02 giờ ngày 17/8/2019, Đ thức dậy đi vệ sinh thì phát hiện 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung A50 của anh T để trên bàn gỗ gần cửa ra vào và quan sát thấy anh T đang ngủ, nên Đ nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại này, Đ đi đến dùng tay phải lấy điện thoại và 100.000 đồng trên bàn bỏ vào túi quần sau rồi mở cửa phòng trọ đi ra ngoài và đón xe ôm tẩu thoát về Quận 8. Ngày 17/8/2019, Đ đem điện thoại Samsung A50 đến cửa hàng A địa chỉ: A đường B, ấp H, xã T, huyện Củ Chi cầm cho anh Nguyễn Văn Đ là chủ cửa hàng được 3.000.000 đồng, tiêu xài hết. Sau đó, Đ mới cho vợ là Hoàng Thị Thùy D biết việc lấy trộm điện thoại của anh T đem đi cầm. D yêu cầu Đ đi chuộc lại điện thoại trả cho anh T. Ngày 08/9/2019, Đ không chuộc lại điện thoại mà nhờ D cầm giấy cầm đồ đến quán nước (không rõ địa chỉ) gần cầu vượt Linh Xuân để đưa giấy cầm đồ cho anh T đi chuộc. Ngày 08/9/2019, anh T đến Công an phường Linh Xuân trình báo sự việc trên. Sau đó, Công an phường mời Đ đến trụ sở làm việc, thu giữ điện thoại di động Samsung A50 tại cửa hàng A do anh Đến giao nộp. (BL: 32-33;42-53;79-80) Ngày 09/9/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Văn Đ. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Nguyễn Văn Đ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. (17-18;56-59;63-66) Vật chứng thu giữ:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung A50 (đã trả lại cho người bị hại, chủ sở hữu là anh Nguyễn Văn T (BL:36;85-86) - 01 tờ giấy “Biên Nhận” màu hồng của cửa hàng điện thoại A (BL37,79) Tại bản kết luận định giá số 1722/CV-HĐĐTSTTTHS ngày 12/9/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Thủ Đức kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung A50 có giá trị tại thời điểm định giá là 3.500.000 đồng. (BL:

30) Về phần dân sự:

- Bị hại là anh Nguyễn Minh T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường (BL: 48) - Anh Nguyễn Văn Đ không yêu cầu bồi thường.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố.

Bản Cáo trạng số 04/CT-VKSTĐ ngày 19/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 của Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, cùng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng để xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù, anh T và anh Đến không yêu cầu bồi thường, phần dân sự đã giải quyết xong.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ không tranh luận, bào chữa. Bị cáo Nguyễn Văn Đ nói lời sau cùng xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn Đ phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bản trình báo nguồn tin vụ việc về an ninh trật tự, biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại anh Nguyễn Minh T. Tài sản chiếm đoạt là 01 điện thoại di động hiệu Samsung A50 có giá trị tại thời điểm định giá là 3.500.000 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Nguyễn Văn Đ đã phạm “Tội trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định, trừng trị tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì động cơ vụ lợi, bị cáo đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với hình phạt nghiêm, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, nên giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Bị hại anh Nguyễn Minh T đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì. Anh Nguyễn Văn Đ không yêu cầu bồi thường, Hội đồng xét xử ghi nhận.

- 01 tờ giấy “Biên Nhận” màu hồng của cửa hàng điện thoại A là vật chứng kèm theo hồ sơ vụ án.

[4] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm “Tội trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn Đ 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/9/2019.

- Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Nguyễn Văn Đ chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, thời gian kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HS-ST ngày 07/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về