TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU NGANG, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 03/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2020/TLST-HNGĐ, ngày 06 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2020/QĐXXST- HNGĐ, ngày 12/11/2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ú, sinh năm 1985, có mặt. Địa chỉ: Khóm 3, thị trấn Đ, huyện Trà C, tỉnh Trà Vinh.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc T, sinh năm 1981, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Ấp Tr, xã V, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/9/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ú trình bày:
- Về hôn nhân: Năm 2003 chị và anh Nguyễn Quốc T xác lập quan hệ hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện C, tỉnh Trà Vinh vào năm 2008. Vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 7/2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh T thường xuyên cờ bạc, chửi mắng, không lo làm ăn, không lo cho vợ con mà còn bỏ nhà đi nên vợ chồng ly thân từ tháng 5/2020 đến nay. Xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Về hôn nhân: Yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Quốc T.
- Về con chung: Có 02 con tên Nguyễn Thị Thúy V, sinh ngày 21/5/2007 và Nguyễn Thái D, sinh ngày 01/7/2015 hiện đang sống với chị, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi 02 con.
- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về số nợ phải thu, phải trả: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra chị Ú không có yêu cầu gì thêm.
Tại bản tự khai đề ngày 12/10/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Quốc T trình bày:
Anh thống nhất với lời trình bày của chị Nguyễn Thị Ú về quan hệ hôn nhân, về con, tài sản và nợ chung. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn chị Ú trình bày là không có, anh vẫn lo làm ăn và luôn lo cho vợ con, anh đồng ý là vợ chồng có bất đồng quan điểm nên vợ chồng ly thân khoảng tháng 8/2020 đến nay. Đối với yêu cầu của chị Ú, anh có ý kiến như sau:
- Về hôn nhân: Anh không đồng ý ly hôn với chị Nguyễn Thị Ú.
- Về con chung: Có 02 con tên Nguyễn Thị Thúy V, sinh ngày 21/5/2007 và Nguyễn Thái D, sinh ngày 01/7/2015 hiện đang sống với chị Ú, anh đồng ý để chị Ú được tiếp tục nuôi 02 con và anh không cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về số nợ phải thu, phải trả: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa hôm nay:
- Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ú giữ nguyên lời trình bày, yêu cầu giải quyết như đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án.
- Bị đơn anh Nguyễn Quốc T vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, nội dung đơn anh T không đồng ý ly hôn với chị Ú, anh xin đoàn tụ.
Lời phát biểu của Kiểm sát viên:
- Về thủ tục tố tụng: Thủ tục thụ lý hồ sơ, xác định quan hệ pháp luật, xác định người tham gia tố tụng, thành phần tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thành phần Hội đồng xét xử đều đúng quy định pháp luật. Các văn bản tố tụng từ khi khởi kiện đến khi Quyết định đưa vụ án ra xét xử đều tống đạt cho các đương sự đầy đủ đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Ú được ly hôn với anh T; về con chung tên Nguyễn Thị Thúy V, sinh ngày 21/5/2007 và Nguyễn Thái D, sinh ngày 01/7/2015 giao cho chị Ú được tiếp tục nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con, tài sản và nợ phải thu, phải trả: Các đương sự không khởi kiện, không tranh chấp nên không xem xét.
Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị Ú phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Các tình tiết, sự kiện đương sự đã thống nhất:
- Về con chung: Có 02 con tên Nguyễn Thị Thúy V, sinh ngày 21/5/2007 và Nguyễn Thái D, sinh ngày 01/7/2015 hiện đang sống với chị Ú, chị Ú và anh T thỏa thuận để chị Ú được tiếp tục nuôi 02 con.
- Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản và số nợ phải thu, phải trả: Chị Ú và anh T không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Các tình tiết, sự kiện đương sự không thống nhất:
- Về hôn nhân: Chị Ú yêu cầu ly hôn với anh T do tình cảm vợ chồng không còn; anh T không đồng ý ly hôn, xin được đoàn tụ với lý do anh T còn thương vợ con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Chị Ú khởi kiện anh T yêu cầu ly hôn và xin được quyền nuôi con, không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng, tài sản và số nợ phải thu, phải trả. Anh T không có yêu cầu phản tố nào khác. Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án ly hôn và tranh chấp về nuôi con. Bị đơn anh T có địa chỉ cư trú tại ấp Trà Cuôn, xã Vinh Kim, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, anh Nguyễn Quốc T có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh T theo quy định của pháp luật.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Út:
[3.1] Về hôn nhân: Chị Ú và anh T xác lập quan hệ hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện C, tỉnh Trà Vinh năm 2008. Tại thời điểm đăng ký kết hôn, chị Ú và anh T đủ điều kiện kết hôn. Căn cứ vào Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình, xác định hôn nhân của chị Ú và anh T là hợp pháp.
Trong quá trình chung sống, chị Ú khai nhận: Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh T không lo cho gia đình, không lo chí thú làm ăn, thường xuyên cờ bạc, chửi mắng vợ con, anh T bỏ nhà đi từ tháng 5/2020 và vợ chồng đã ly thân từ đó đến nay. Trong thời gian ly thân, anh T có qua lại nhưng chủ yếu là thăm con chứ không quan tâm gì đến chị.
Anh Nguyễn Quốc T khai nhận: Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn chị Ú trình bày là không có, anh vẫn lo làm ăn, luôn lo cho vợ con, anh đồng ý là vợ chồng có bất đồng quan điểm nên vợ chồng ly thân khoảng tháng 8/2020 đến nay. Tuy nhiên anh còn thương vợ con nên không đồng ý ly hôn, xin được đoàn tụ.
Xét thấy gia đình là tế bào xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc và bền vững. Quá trình chung sống giữa chị Ú và anh T chưa thống nhất với nhau về quan điểm sống, về ứng xử giao tiếp; khi mâu thuẫn xảy ra anh chị phải biết tự điều chỉnh hành vi của mình cùng nhau góp ý, xây dựng, chia sẽ và tôn trọng lẫn nhau để giải quyết mọi vấn đề bất đồng phát sinh nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình, nhưng khi xảy ra mâu thuẫn chị Ú và anh T bỏ mặt không quan tâm đến tình chồng nghĩa vợ, từ đó làm cho tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt.
Tại phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ nhất anh T xin đoàn tụ. Tòa án tạo điều kiện cho anh chị có thời gian suy nghĩ để hàn gắn lại với nhau, sau đó Tòa án tiếp tục mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ hai nhưng anh T vắng mặt không có lý do. Tại phiên tòa hôm nay anh T tiếp tục vắng mặt, chị Ú vẫn kiên quyết xin ly hôn, xét anh T và chị Ú đã ly thân từ tháng 5/2020 đến nay vợ chồng không còn quan tâm đến nhau, không có thiện chí hàn gắn, nên việc hàn gắn đoàn tụ vợ chồng không có kết quả, từ đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị Ú và anh T ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình xét yêu cầu xin ly hôn của chị Ú là phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3.2] Về con chung: Chị Ú và anh T chung sống với nhau có 02 con tên Nguyễn Thị Thúy V, sinh ngày 21/5/2007 và Nguyễn Thái D, sinh ngày 01/7/2015. Xét từ khi vợ chồng ly thân đến nay, chị Ú là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu V, cháu D và đảm bảo phát triển tốt về mọi mặt của các con, hơn nữa cháu V cũng có nguyện vọng là muốn được sống chung với mẹ, anh T cũng đồng ý để chị Ú nuôi dưỡng 02 con chung. Tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình quy định “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Do đó Hội đồng xét xử giao quyền trực tiếp nuôi 02 con cho chị Ú là phù hợp với quy định của pháp luật.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản và nợ phải thu, phải trả: Các đương sự không khởi kiện, không tranh chấp nên không xem xét.
[5] Về án phí: Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Ú phải nộp án phí hôn nhân gia đình không có giá ngạch là 300.000 đồng.
[6] Xét quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227, 228, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Ú được ly hôn với anh Nguyễn Quốc T.
2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị Ú được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn Thị Thúy V, sinh ngày 21/5/2007 và Nguyễn Thái D, sinh ngày 01/7/2015.
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.
3. Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản và nợ phải thu, phải trả: Các đương sự không khởi kiện, không tranh chấp nên không xem xét.
4. Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị Ú phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị Ú đã nộp theo biên lai số 0006204 ngày 05 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cầu Ngang.
5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đối với đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án 03/2020/HNGĐ-ST ngày 30/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 03/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cầu Ngang - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về