Bản án 03/2020/HNGĐ-ST ngày 29/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘ ĐỨC, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 03/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại Nhà văn hóa tổ dân phố 1, thị trấn Mộ Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:16/2020/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Xuân T; địa chỉ: Thôn X, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi.

2. Bị đơn: Anh Huỳnh H; địa chỉ: Thôn X, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi.

Chị T có mặt; anh H vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 03 tháng 8 năm 2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày 12 tháng 10 năm 2020 và các văn bản trình bày khác trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị Xuân T trình bày:

Chị và anh Huỳnh H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, thành phố Q ngày 04 tháng 8 năm 2006. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn nên chị đã nộp đơn xin ly hôn anh H, nhưng sau khi được Tòa án hòa giải chị đã rút đơn khởi kiện. Tuy nhiên, sau khi chị rút đơn khởi kiện đến nay vợ chồng vẫn thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã do bất đồng quan điểm. Vì vậy, từ năm 2015 đến nay chị và anh H sống ly thân, không quan tâm đến nhau. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị và anh Huỳnh H có 02 con chung là Huỳnh Triệu V, sinh ngày 25 tháng 12 năm 2002 và Huỳnh Triệu Vi Q, sinh ngày 10 tháng 9 năm 2008. Khi ly hôn, chị yêu cầu Tòa án giao 02 con cho chị trực tiếp nuôi, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác cho bị đơn anh Huỳnh H nhưng anh H từ chối nhận; anh H cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; không đến Tòa án làm việc theo giấy triệu tập, thông báo của Tòa án, không tham gia các phiên tòa.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đúng theo quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không chấp hành pháp luật theo quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 28, 35, 39, 227, 228, 144, 147, 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phạm Thị Xuân T.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Xuân T được ly hôn anh Huỳnh H; về con chung: Giao 02 con chung là Huỳnh Triệu V, sinh ngày 25 tháng 12 năm 2002 và Huỳnh Triệu Vi Q, sinh ngày 10 tháng 9 năm 2008 cho chị Phạm Thị Xuân T trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; chị T không yêu cầu anh Huỳnh H cấp dưỡng cho con; về tài sản chung, nợ chung: Chị Phạm Thị Xuân T trình bày không có nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết về án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Tại thời điểm chị Phạm Thị Xuân T khởi kiện thì anh Huỳnh H đang cư trú tại Thôn X, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Mộ Đức thụ lý vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phạm Thị Xuân T là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Mặc dù Tòa án đã triệu tập bị đơn anh Huỳnh H tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng anh H vẫn từ chối nhận văn bản tố tụng của Tòa án và vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Huỳnh H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Phạm Thị Xuân T và anh Huỳnh H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 04 tháng 8 năm 2006. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị Xuân T và anh Huỳnh H là hợp pháp.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị Xuân T, Hội đồng xét xử thấy rằng: Theo trình bày của nguyên đơn chị Phạm Thị Xuân T thì trong quá trình chung sống, giữa chị và anh Huỳnh H thường xảy ra mẫu thuẫn, cãi nhau do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Từ năm 2015 đến nay, chị và anh H sống ly thân, không quan tâm đến nhau, không còn tình cảm vợ chồng. Vì vậy, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Huỳnh H.

Trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã nhiều lần động viên chị Phạm Thị Xuân T đoàn tụ với anh H, nhưng chị T xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh H nên cương quyết yêu cầu được ly hôn. Đối với anh Huỳnh H, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác nhưng anh H từ chối nhận; anh H biết chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh nhưng không có ý kiến phản đối với yêu cầu khởi kiện của chị T, không tham gia phiên hòa giải và các phiên tòa sơ thẩm.

Từ những nhận định trên, có căn cứ xác định tình trạng mâu thuẫn giữa vợ chồng chị Phạm Thị Xuân T và anh Huỳnh H đã trầm trọng, vợ chồng không còn thương yêu, chăm sóc lẫn nhau và đã sống ly thân trong một thời gian dài, vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đây là một trong những căn cứ để Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Vì vậy, chị Phạm Thị Xuân T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn anh Huỳnh H là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và trình bày của nguyên đơn chị Phạm Thị Xuân T trong quá trình giải quyết vụ án, có căn cứ xác định: Chị Phạm Thị Xuân T và anh Huỳnh H có 02 con chung là Huỳnh Triệu V, sinh ngày 25 tháng 12 năm 2002 và Huỳnh Triệu Vi Q, sinh ngày 10 tháng 9 năm 2008. Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, chị T yêu cầu Tòa án giao 02 con chung cho chị trực tiếp nuôi.

Xét yêu cầu về nuôi con của chị Phạm Thị Xuân T, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hiện nay 02 con chung Huỳnh Triệu V và Huỳnh Triệu Vi Q đang sống cùng với chị T và do chị T trực tiếp chăm sóc. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Huỳnh H không có ý kiến, yêu cầu gì về việc nuôi con. Ngoài ra, các con chung của chị T và anh H đều trình bày có nguyện vọng được sống với mẹ. Do đó, để ổn định cuộc sống và các quyền lợi khác cho các con chung của chị T và anh H; căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Xuân T, giao 02 con chung Huỳnh Triệu V và Huỳnh Triệu Vi Q cho chị T trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

[2.3] Về cấp dưỡng cho con: Chị Phạm Thị Xuân T được giao trực tiếp nuôi 02 con chung, nhưng chị T không yêu cầu anh Huỳnh H cấp dưỡng cho con. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phạm Thị Xuân T trình bày không có, anh Huỳnh H không có ý kiến trình bày về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị Phạm Thị Xuân T phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình, được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí chị T đã nộp.

[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộ Đức tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, các điều 144, 147, 235, 266, 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” của chị Phạm Thị Xuân T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Xuân T được ly hôn anh Huỳnh H.

2. Về con chung: Chị Phạm Thị Xuân T và anh Huỳnh H có 02 con chung là Huỳnh Triệu V, sinh ngày 25 tháng 12 năm 2002 và Huỳnh Triệu Vi Q, sinh ngày 10 tháng 9 năm 2008. Giao 02 con chung Huỳnh Triệu V và Huỳnh Triệu Vi Q cho chị Phạm Thị Xuân T trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Anh Huỳnh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng cho con: Chị Phạm Thị Xuân T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phạm Thị Xuân T trình bày không có, anh Huỳnh H không có ý kiến trình bày về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí: Chị Phạm Thị Xuân T phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0005805 ngày 12 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Phạm Thị Xuân T có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn anh Huỳnh H không có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

7. Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HNGĐ-ST ngày 29/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:03/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộ Đức - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về