Bản án 03/2020/HNGĐ-ST ngày 24/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHƯỚC LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 03/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 195/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2020/QĐ-HPT ngày 05 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

 Nguyên đơn: Anh Phan Duy T, sinh năm 1992 (Vắng mặt)

Bị đơn: Chị Phạm Thị C, sinh năm 1993 (Vắng mặt) Cùng địa chỉ: Khu phố Z, phường L, thị xã P, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Phan Duy T trình bày:

Anh và chị Phạm Thị C đã tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân phường L, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước theo Giấy chứng nhận kết hôn số 55/2014 ngày 31/10/2014. Trong quá trình chung sống, hôn nhân phát sinh những mâu thuẫn không thể giải quyết được, vợ chồng thường xuyên cãi nhau khiến cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Xét thấy mục đích hôn nhân không còn, nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh T được ly hôn với chị Phạm Thị C.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, anh T và chị C có 01 người con chung là:

Phan Ngọc Nhã Vy, sinh ngày 17/10/2014, anh T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi con chung thành niên đủ 18 tuổi, anh T không yêu cầu chị Giàu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn chị Phạm Thị C:

Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, chị Phạm Thị C đã được Tòa án thông báo nhưng chị C không hợp tác để giải quyết vụ việc. Tòa án đã tiến hành các thủ tục xác minh, niêm yết tại địa phương theo quy định của pháp luật nhưng chị C vẫn vắng mặt không có lý do.

Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần 2 không có lý do; căn cứ vào Điều 227 và Điều 228, Hội đồng xét xử tiến hành xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử: Đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã tuân thủ đúng trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần 2 không có lý do. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo thủ tục vắng mặt của Nguyên đơn, Bị đơn là đúng quy định.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 8, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

[1] Đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, các đương sự có địa chỉ tại thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phước Long theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự .

Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh T và chị C kết hôn tự nguyện, có đăng kí kết hôn theo quy định pháp luật. Đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh T và chị C phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến anh T không muốn tiếp tục cuộc sống hôn nhân với chị C. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng không thành, do chị Phạm Thị C vắng mặt không có lý do. Chứng tỏ chị Phạm Thị C đã từ bỏ quyền yêu cầu Tòa án hòa giải và không mong muốn vợ chồng đoàn tụ.

Hội đồng xét xử xét thấy, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng làm cho tình trạng hôn nhân trở nên trầm trọng, tình cảm giữa anh T và chị C không còn, đời sống chung vợ chồng không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn anh T đối với bị đơn chị C.

[3] Về con chung: Hiện con chung của anh T và chị C là cháu Phan Ngọc Nhã V, sinh ngày 07/10/2014 đang chung sống cùng anh T. Anh T có nguyện vọng được nuôi con, có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, nên cần giao con chung cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

Anh T không yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Anh T và chị C không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí -lệ phí Tòa án;

Áp dụng Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Tuyên xử:

[1].Về quan hệ hôn nhân: Anh Phan Duy T được ly hôn với chị Phạm Thị C.

[2]. Về con chung: Giao con chung tên Phan Ngọc Nhã V, sinh ngày 07/10/2014 cho anh Phan Duy T trực tiếp trôm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung thành niên đủ 18 tuổi. Chị Phạm Thị C không cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Phạm Thị C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con. Khi người có yêu cầu được quy định tại Điều 119 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Tòa án có thể thay đổi về việc cấp dưỡng.

[3] Về án phí: Anh Phan Duy T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí anh T đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006933 ngày 10 tháng 8 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước.

[4] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương.

“Trường hợp Quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 03/2020/HNGĐ-ST ngày 24/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:03/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phước Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về