Bản án 03/2019/HSST ngày 22/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 03/2019/HSST NGÀY 22/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án Nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:

Lê Văn D, sinh năm: 1978 tại Bình Định; nơi cư trú: 27/67 Nguyễn T, tổ 11, phường D, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Thợ sơn; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: V; con ông Lê Văn B, sinh năm: 1943 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1945; có vợ Tạ Thị P, sinh năm: 1980 và có 02 con; tiền án: Không, tiền sự: 01, ngày 19/8/2018 bị UBND phường Diên H, thành phố P, tỉnh Gia Lai ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại phường về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Bị tạm giữ từ ngày 22 tháng 9 năm 2018 đến ngày 01 tháng 10 năm 2018, sau đó áp dụng biện pháp tạm giam cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm: 1997; nơi cư trú: Thôn 6, xã T, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm: 1967; nơi cư trú: Tổ 3, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn D là người có sử dụng ma túy. Khoảng 01 giờ ngày 22/9/2018, khi đang chơi game tại quán Net P (số 187 đường Phan Đình P, phường T, TP.P), thì D nảy sinh ý định mua ma túy để sử dụng. Do điện thoại của D hết pin, nên D mượn điện thoại của một người đang chơi game gần đó, rồi gắn thẻ sim của D vào và gọi cho đối Tợng nam thanh niên tên T (chưa xác minh được nhân thân, địa chỉ) hỏi mua ma túy. Một lúc sau, đối tượng T đến quán Net P bán cho D 01 gói ma túy dạng tinh thể (còn gọi là ma túy đá) với giá tiền 700.000 đồng và cho D mượn 01 chai nhựa có gắn ống thủy tinh hình móc câu cùng với ống hút bằng nhựa là dụng cụ để sử dụng ma túy. Sau khi mua được ma túy, D đã sử dụng hết một phần, phần còn lại D cất giấu dưới bàn phím máy vi tính tại vị trí đang ngồi chơi game, để tiếp tục sử dụng. Đến 06 giờ 30 phút ngày 22/9/2018, khi D đang chơi game và cất giấu ma túy dưới bàn phím, thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.P phát hiện, bắt quả tang. Cơ quan điều tra thu giữ phía dưới bàn phím máy vi tính nơi D đang ngồi chơi game 01 gói nilon, bên trong có chứa chất rắn màu trắng dạng tinh thể; gói nilon trên được niêm phong theo quy định. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ của D 01 chai nhựa có gắn ống thủy tinh hình móc câu và ống hút bằng nhựa, 01 điện thoại di động hiệu Mobiistar kèm sim số. Riêng thẻ sim D đã dùng để gắn vào điện thoại mượn và gọi cho đối tượng tên T, sau đó D đã làm rơi mất, nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Qua trưng cầu giám định, tại kết luận giám định số 558/KLGĐ ngày 01/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “Chất màu trắng dạng tinh thể trong 01 (một) gói nilon trong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,2704 gam”.

Đối với các đồ vật, tài sản thu giữ của Lê Văn D, qua điều tra xác định: Chai nhựa gắn ống thủy tinh hình móc câu và ống hút bằng nhựa, là dụng cụ D dùng để sử dụng ma túy loại Methamphetamine; điện thoại di động hiệu Mobiistar kèm sim số là tài sản của D, không có căn cứ xác định có liên quan đến hành vi tàng trữ chất ma túy do D thực hiện. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.Pleiku chuyển các đồ vật, tài sản trên theo vụ án để xử lý. Đối với chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định, Cơ quan giám định hoàn trả cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.P trong bì công văn được niêm phong ghi số 588/PC09 ngày 01/10/2018, Cơ quan điều tra cũng chuyển theo vụ án để xử lý.

Đối với đối tượng tên T, theo bị cáo D khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra do bị cáo không biết rõ họ tên, địa chỉ của đối tượng T nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh, làm rõ.

Tại Bản cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 03-01-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo Lê Văn D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Văn D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Lê Văn D mức án từ 15 đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy 01 bì công văn niêm phong số 588/PC09 ngày 01-10-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai và 01 chai nhựa một đầu có gắn một ống thủy tinh móc câu và ống hút bằng nhựa; trả lại cho bị cáo D 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar màu vàng đen kèm sim số và buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Lê Văn D khai nhận về hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi đúng như nội dung mà bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết quả giám định và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Có đủ cơ sở xác định vào ngày 22/9/2018, bị cáo D đã có hành vi cất giữ 0,2704 gam ma túy, loại Methamphetamine.

[3] Ma túy là chất kích thích, gây nghiện, hạn chế sử dụng; việc lạm dụng là rất nguy hiểm, là mối nguy hại lớn cho đời sống văn hóa tinh thần, trật tự an toàn xã hội. Do đó thuộc sự quản lý, kiểm soát nghiêm ngặt của cơ quan quản lý nhà nước nhằm không gây nguy hiểm cho xã hội. Việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán phải tuân thủ đúng qui định của pháp luật. Mọi hành vi vi phạm các qui định này đều bị pháp luật nghiêm trị.

[4] Bị cáo là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hoàn toàn nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là trái pháp luật, nhưng đã cất giấu để sử dụng. Bị cáo tàng trữ 0,2704 gam chất ma túy, loại Methamphetamine, là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Bị cáo nhận thức được hành vi của mình bị pháp luật nghiêm cấm, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, phạm tội nghiêm trọng. Bị cáo có nhân thân xấu, đang phải chấp hành biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại phường về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không tu dưỡng, cải tạo tốt mà tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép ma túy. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần xử lý nghiêm bằng hình phạt tù, trong khung hình phạt đã phạm nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức chấp hành pháp luật, cai nghiện để thành công dân có ích cho xã hội, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định là chất cấm tàng trữ, lưu hành và 01 chai nhựa, ống hút sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar màu vàng đen kèm sim số là tài sản của bị cáo D không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Văn D 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 22 tháng 9 năm 2018.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu và tiêu hủy 01 bì công văn niêm phong số 588/PC09 ngày 01-10-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai và 01 chai nhựa một đầu có gắn một ống thủy tinh móc câu và ống hút bằng nhựa.

Trả lại cho bị cáo Lê Văn D 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar màu vàng đen kèm sim số. (Đặc điểm các vật chứng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07-01-2019 giữa Công an thành phố P và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Lê Văn D phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

317
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HSST ngày 22/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về