Bản án 03/2019/HS-ST ngày 01/03/2019 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 03/2019/HS -ST NGÀY 01/03/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 01 tháng 03 năm 2019. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Bùi Văn T, sinh ngày 06/04/1999

Tại: Xóm M – Xã T - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình.

Nơi cư trú: Xóm M – Xã T - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình

Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo:  Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn N, sinh năm 1969 và bà Bùi Thị D, sinh năm 1975; Bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo lệnh số 01/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 30 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, có mặt tại phiên tòa.

2. Bùi Văn N1, sinh ngày 13/01/1998

Tại: Xóm M – Xã T - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình

Nơi cư trú: Xóm M – Xã T - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình

Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn P, sinh năm 1973 và bà Bùi Thị H, sinh năm 1975; Bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo lệnh số 02/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 30 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bùi Văn N2, sinh năm 1989

Địa chỉ: Xóm K – Xã Q - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bùi Văn N3, sinh năm 1969

Địa chỉ: Xóm M – Xã T - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình (có mặt).

+ Bùi Thị T, sinh năm 1965

Địa chỉ: Xóm K – Xã Q - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình (có mặt).

+ Bùi Thành D, sinh năm 2003 và Bùi Văn B, sinh năm 1981

Địa chỉ: Xóm M – Xã T - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình (vắng mặt).

+ Bùi Văn L1, sinh năm 2000

Địa chỉ: Xóm M – Xã T - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình (vắng mặt).

- Người làm chứng:

+ Quách Văn H, sinh năm 1995

Địa chỉ: Xóm K – Xã Q - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình (có mặt).

+ Bùi Tiến H, sinh năm 1991

Địa chỉ: Xóm K – Xã Q - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình (vắng mặt)

+ Bùi Thị H, sinh năm 1987

Địa chỉ: Xóm M– Xã T - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình (vắng mặt)

+ Bùi Văn L2, sinh năm 1992

Địa chỉ: Xóm M – Xã T - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình (vắng mặt).

+ Bàn Thị N, sinh năm 1999

Địa chỉ: Thôn Nậm K – Xã N - Huyện V – Tỉnh Yên Bái (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 25/09/2018, Bùi Văn Th; Bùi Văn N1; Bùi Văn L1; Bùi Văn L2; Bùi Văn K; Bùi Thành D cùng trú tại xã T – Huyện L rủ nhau đi xem xiếc tại xóm T - Xã T - Huyện L - Tỉnh Hòa Bình. Tuy nhiên cả nhóm đến đó nhưng không vào xem mà lại rủ nhau đi lên hồ Khả thuộc địa phận xóm K - Xã Q - Huyện L - Tỉnh Hòa Bình để chơi.

Trước khi đi cả nhóm tập trung ở ngoài đường trước khu vực cổng của gia đìnhBùi Văn T, T đã về nhà lấy 03  (ba) con dao mũi bằng, có tổng chiều dài mỗi con khoảng 30cm - 35cm, phần lưỡi dao làm bằng kim loại, chuôi dao bằng gỗ, cầm ra đưa cho N1, L1 và T mỗi người cầm 01 (một) dao mang đi chơi nhằm mục đích để phòng vệ. Sau đó cả nhóm đi bằng 03 (ba) xe mô tô, cụ thể: D điều khiển xe mô tô chở T ngồi sau cầm dao đi trước; L1 điều khiển xe mô tô chở N1 ngồi sau đi thứ hai; K điều khiển xe mô tô chở L1 ngồi sau đi sau cùng. Khi lên đến hồ Khả thì D và T đến trước và gặp một tốp thanh niên nam, nữ gồm: Bùi Văn N2, Quách Văn H, Bùi Tiến H cùng trú tại xóm K – Xã Q – Huyện L; Bùi Thị H, trú tại xóm M – Xã T – Huyện L và Bàn Thị N, trú tại thôn Nậm K – Xã N – Huyện V – Tỉnh Yên Bái đang ngồi uống rượu cần và hát hò tại hồ Khả.

Khi thấy xe mô tô của T và D đi đến, Bùi Văn N2 đứng dậy đi ra chặn xe và nói “đi xe kiểu gì mà nhanh thế?” rồi dùng tay đấm vào người T nhưng không trúng, lúc này T xuống khỏi xe mô tô, sẵn tay phải đang cầm dao, T vung phần sống dao đánh trúng vào vùng bụng, mạng sườn bên trái của N2 rồi bỏ chạy. N2 quay sang dùng tay đấm 02 đến 03 cái vào bụng của D, khi D đang ngồi trên xe mô tô. Thấy vậy H cũng đi đến và dùng tay đấm vào vùng bụng của D. T chạy đến chỗ L1 và N1 đang ngồi trên xe mô tô cách đó 93m (chín mươi ba mét), khi đó K và L2 cũng đi đến và dừng xe mô tô ở gần chỗ D. Lúc này T nói với N1 và L1 “D bị đánh rồi vào đi”, nghe T nói vậy N1 cầm dao đi theo T vào chỗ của N2, L1 đi theo sau. Nhìn thấy T, N2 chạy lại thì bị T cầm dao ở tay phải vung lên chém một nhát trúng vào má trái gây thương tích, N2 lao vào khống chế, dùng tay phải khóa 01 tay của T ra phía sau lưng, tay trái giật được dao từ tay T, vung lên chém về phía T nhưng lưỡi dao bị tuột khỏi chuôi văng đi chỗ khác. Thấy vậy Bùi Văn N1 chạy đến cầm dao ở tay trái vung lên chém một nhát vào vùng đầu của Bùi Văn N2 gây thương tích. Sau đó Bùi Văn T, Bùi Văn N1 bỏ chạy khỏi hiện trường.

Bùi Văn N2 được Bùi Thị H và Bùi Văn L2 đưa đi cấp cứu tại trạm y tế xã Q và Trung tâm y tế huyện L. Tại đây N2 đã đuổi đánh L2 làm cho L2 bị thương tích ở tay và đầu. Đến ngày 29/09/2018, Bùi Văn T và Bùi Văn N1 đã đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngày 11/10/2018, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn ra Quyết định trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Hòa Bình giám định mức độ tổn hại phần trăm sức khỏe đối với Bùi Văn N2. Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 201/TgT, ngày 15/10/2018 của Trung tâm pháp y  tỉnh Hòa Bình kết luận chấn thương vùng mặt, cánh tay trái, hông trái của Bùi Văn N2 do vật có cạnh sắc tác động gây: Mẻ bản ngoài xương sọ; liệt nhánh thần kinh VII ngoại biên; sẹo lồi lõm vùng đầu mặt; sẹo cánh tay trái; sẹo hông trái. Áp dụng phương pháp cộng lùi tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 25% (hai mươi lăm phần trăm).

Ngày 12/10/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn ra Quyết định trưng cầu giám định Trung tâm pháp y tỉnh Hòa Bình giám định mức độ tổn hại phần trăm sức khỏe đối với Bùi Văn L2. Tuy nhiên sau khi xảy ra sự việc L2 không có yêu cầu đề nghị gì, Bùi Văn L2 không có mặt  tại địa phương nên cơ quan cảnh sát điều tra không đề cập trong vụ án.

Vật chứng thu giữ gồm:

+ 01 (một) con dao mũi bằng, màu đen, bằng kim loại, tổng chiều dài 38cm; lưỡi dao dài 25,5cm, lưỡi dao rộng 07cm, cán dao bằng gỗ dài 12,5cm.

+ 01 (một) áo phông màu đen, sọc vai màu trắng, trước ngực có chữ NIKE màu trắng, trên áo bám dính nhiều tạp chất màu nâu đỏ đã khô.

+ 01 (một) chuôi dao bằng gỗ màu nâu, hai đầu chuôi dao bọc kim loại dài 13,2cm phần rộng nhất là 3,7cm. Trên chuôi dao có vết nứt gỗ kích thước 11,2cm x 0,4cm; phần cuối chuôi dao có vết máu kích thước 0,6cm x 0,4cm.

+ 01 (một) viên đá có dính máu được thu tại hiện trường.

Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành truy tìm hiện trường và hồ nước đối với 01 (một) lưỡi dao và 01 con dao mà Bùi Văn T và Bùi Văn N1 sử dụng để gây án nhưng không phát hiện được.

Về trách nhiệm dân sự: Bùi Văn N2 bị thương tích phải đi cấp cứu và điều trị tại Trung tâm y tế huyện Lạc Sơn từ ngày 25/09/2018 đến ngày 02/10/2018, sau đó tiếp tục điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hòa Bình từ ngày 03/10/2018 đến ngày23/10/2018. Quá trình điều tra, truy tố các bị cáo và gia đình đã bồi thường cho Bùi Văn N2 số tiền 80.000.000đ (tám mươi triệu đồng). Hiện tại người bị hại không có yêu cầu gì thêm về mặt dân sự, đồng thời có đơn xin miễn giảm trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

Đối với Bùi Văn N2, Quách Văn H đã có hành vi dùng tay đánh Bùi Thành D đã vi phạm pháp luật. Tuy nhiên chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, do vậy Công an huyện Lạc Sơn đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính các đối tượng này.

Quá trình điều tra xét thấy Bùi Văn L1, Bùi Văn L2, Bùi Văn K, Bùi Thành D,ngày 25/09/2018 không liên  quan đến việc gây thương tích cho Bùi Văn N2 nên cơquan điều tra không truy  cứu trách nhiệm hình sự.

Quá trình điều tra, truy tố các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi dùng dao đánh, chém gây thương tích cho Bùi Văn N2 ngày 25/9/2018 tại hồ Khả thuộc địa phận xóm K, xã Q, huyện L, tỉnh, tỉnh Hòa Bình phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác mà cơ quan cảnh sát điều tra thu thập được.

Tại bản cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 23 tháng 01 năm 2019,Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn đã truy tố Bùi Văn T, Bùi Văn N1 về tội "Cố ý gây thương tích" theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự. Thực hành quyền công tố tại phiên toà, đại diện VKSND huyện Lạc Sơn, sau khi xem xét, đánh giá toàn bộ nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; trình bày quan điểm và luận tội: Giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự tuyên bố các bị cáo phạm tội "Cố ý gây thương tích". Đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Văn T từ 30 - 36 tháng tù; bị cáo Bùi Văn N1 từ 24 – 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời hạn thử thách và giải quyết các vấn đề khác theo quy định.

Các bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại Bùi Văn N2 nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn giảm trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Lạc Sơn, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy lời khai nhận của các bị cáo có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác như: Đơn xin đầu thú; Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú; biên bản xem xét dấu vết trên thân thể; biên bản khám nghiệm và bản ảnh hiện trường; Bệnh án và bản kết quả giám định thương tích của Trung tâm pháp y tỉnh Hòa Bình; lời khai của bị hại; người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 22 giờ, ngày 25/09/2018 tại hồ Khả thuộc xóm K, xã Q, huyện L do mâu thuẫn cá nhân bột phát nên Bùi Văn T, Bùi Văn N1 đã có hành vi dùng daođánh và chém vào vùng bụng,  mạng sườn, vùng má trái của Bùi Văn N2 gây thương tích dẫn tới hậu quả: Bùi Văn N2 bị thiệt hại 25% (hai mươi lăm phần trăm)sức khỏe so với tình trạng sức khỏe trước khi bị xâm hại. Vì vậy, việc các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố là có cơ sở đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đồng thời có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Bùi Văn T, Bùi Văn N1 phạm tội “Cố ýgây thương tích”.  Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi nêu trên của các bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến quyền được bảo hộ về sức khoẻ của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội trên địa bàn. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức việc làm của mình là sai trái, nguy hiểm cho xã hội. Song vì bị kích động từ hành vi trái pháp luật của người bị hại, không kiềm chế được bản thân nên các bị cáo đã thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác. Lỗi của các bị cáo trong vụ án là lỗi cố ý trực tiếp. Do vậy các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện.

[4] Xét tính chất của vụ án, đây là vụ án đồng phạm về tội “Cố ý gây thương tích” có tính chất giản đơn. Tuy nhiên, để làm cơ sở cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hình phạt đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử đã phân tích và xét thấy: Bị cáo Bùi Văn T giữ vai trò chính, là người lôi kéo bị cáo Bùi Văn N1 tham gia tội phạm và trực tiếp thực hành hành vi gây thương tích cho bị hại sau khi bị người bị hại chặn đánh trước. Bị cáo Bùi Văn N1 đồng phạm với vai trò người thực hành tích cực, bị cáo đã tiếp nhận ý chí phạm tội từ bị cáo T nên N1 đã có hành vi dùng dao chém vào phần đầu gây thương tích cho bị hại Bùi Văn N2.

Xét nguyên nhân, điều kiện phạm tội cho thấy: Do các bị cáo tuổi đời còn trẻ, suy nghĩ nông nổi, không biết cách hành xử phù hợp nên đã xảy ra mâu thuẫn dẫn tới hành vi gây thương tích cho người khác. Tuy nhiên sự việc xảy ra bị hại Bùi Văn N2 cũng có một phần lỗi bởi vì hành vi chặn xe mô tô dùng vũ lực tấn công Bùi Văn T, Bùi Thành D trước đã gây tâm lý ức chế, kích động về tinh thần dẫn tới hành vi phạm tội của các bị cáo. Đây cũng là tình tiết xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo trong quá trình lượng hình.

Xét nhân thân: Trước khi phạm tội các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, chưa có vi phạm gì.

[5] Về tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả; các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại gây ra; sau khi phạm tội các bị cáo đã ra đầu thú; các bị cáo là người dân tộc thiểu số (dân tộc Mường) sinh sống tại khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo theo quy định tại các điểm b, e, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự trong quá trình lượng hình. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Đối với việc giải quyết của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Lạc Sơn đối với các đối tượng có liên quan trong vụ án, xét thấy là phù hợp nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[7] Cân nhắc tính chất lỗi, nguyên nhân, điều kiện và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của các bị cáo. Xét thấy, chưa cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà nên áp dụng với các bị cáo hình phạt tù có điều kiện cũng đủ giáo dục cải tạo các bị cáo, đồng thời thể hiện chính sách pháp luật hình sự khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Trước khi mở phiên tòa, các bị cáo và gia đình đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường thiệt hại cho bị hại với tổng số tiền 80.000.000đ (tám mươi triệu đồng). Tại phiên tòa hôm nay bị hại không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường khoản gì thêm.

Xét thấy, việc thỏa thuận và tự nguyện bồi thường của các bên là phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường của các bên, không đề cập trách nhiệm dân sự đối với các bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bùi Văn N3 từ chối nhận lại vật chứng; xét thấy các vật chứng không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy đối với:

+ 01 (một) con dao mũi bằng, màu đen, bằng kim loại, tổng chiều dài 38cm, lưỡi dao dài 25,5cm, lưỡi dao rộng 7cm, cán dao bằng gỗ dài 12,5cm.

+ 01 (một) áo phông màu đen, sọc vai màu trắng, trước ngực có chữ NIKE màu trắng, trên áo bám dính nhiều tạp chất màu nâu đỏ đã khô.

+ 01 (một) chuôi dao bằng gỗ màu nâu, hai đầu chuôi dao bọc kim loại dài 13,2 cm phần rộng nhất là 3,7cm. Trên chuôi dao có vết nứt gỗ kích thước 11,2cm x 0,4cm; phần cuối chuôi dao có vết máu kích thước 0,6cm x 0,4cm.

+ 01 (một) viên đá có dính máu được thu tại hiện trường.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, e, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Các bị cáo Bùi Văn T, Bùi Văn N1 phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

+ Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 36 (ba mươi sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, với thời hạn thử thách là 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 01/03/2019.

+ Xử phạt bị cáo Bùi Văn N1 30 (ba mươi) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, với thời hạn thử thách là 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 01/03/2019.

+ Giao bị cáo Bùi Văn T, Bùi Văn N1 cho UBND xã T – Huyện L – Tỉnh Hòa Bình và gia đình để quản lý giáo dục trong thời gian chấp hành án.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo

2.Về trách nhiệm dân sự: HĐXX ghi nhận sự thỏa thuận của các bên và không đề cập vấn đề trách nhiệm dân sự của vụ án.

3.Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tuyên tịch thu để xuất huỷ đối với:

+ 01 (một) con dao mũi bằng, màu đen, bằng kim loại, tổng chiều dài 38cm, lưỡi dao dài 25,5cm, lưỡi dao rộng 07cm, cán dao bằng gỗ dài 12,5cm.

+ 01(một) áo phông màu đen, sọc vai màu trắng, trước ngực có chữ NIKE màu trắng, trên áo bám dính nhiều tạp chất màu nâu đỏ đã khô.

+ 01(một) chuôi dao bằng gỗ màu nâu, hai đầu chuôi dao bọc kim loại dài 13,2cm phần rộng nhất là 3,7cm. Trên chuôi dao có vết nứt gỗ kích thước 11,2cm x 0,4cm; phần cuối chuôi dao có vết máu kích thước 0,6cm x 0,4cm.

+ 01(một) viên đá có dính máu được thu tại hiện trường.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa công an huyện Lạc Sơn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn ngày 29/01/2019)

4.Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc các bị cáo Bùi Văn T, Bùi Văn N1 mỗi người phải chịu 200.00đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án hoặc trích lục án được niêm yết công khai hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HS-ST ngày 01/03/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:03/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về