Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁT XÁT – TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 03/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30/5/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 29/TLST-HNGĐ ngày 14/3/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2019/QĐXX-ST ngày 20/5/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Sần Thị H - Sinh năm 1998

Nghề nghiệp: Tự do; Dân tộc: Giáy

Trú tại: Thôn P, xã Q, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

Bị đơn: Anh Hù A H - Sinh năm 1995.

Nghề nghiệp: Tự do; Dân tộc: Giáy.

Trú tại: Thôn Làng S, xã Q, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

Các đương sự có mặt tại phiên toà

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và bản tự khai tại Tòa án nguyên đơn chị Sần Thị H trình bày: Chị và anh Hù A H tự nguyện tìm hiểu và kết hôn vào năm 2016 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị sống hạnh phúc đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H sử dụng ma tuý chị và gia đình đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh H không từ bỏ được, từ đó vợ chồng chị H thường xuyên xảy ra cãi cọ nhau, bất đồng quan điểm sống cuộc sống chung luôn căng thẳng mệt mỏi. Mặc dù đã được gia đình hai bên khuyên bảo và chị cũng đã động viên anh H đi cai nghiện nhiều lần nhưng anh H không cai được mà ngày càng nghiện nặng hơn. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 3/2018 không còn quan tâm đến nhau và cũng không còn quan hệ gì về tình cảm và kinh tế. Đến nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng chị H không còn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hù A H để sớm ổn định cuộc sống.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị H anh chị có một con chung là Hù Thị BD - Sinh 29/9/2016, khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cháu D và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh chị không có tài sản gì nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bị đơn anh Hù A H trình bày: Anh và chị Sần Thị H tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào năm 2016 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xãQ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị sống hạnh phúc đến đầu năm 2018 sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do trong thời gian chung sống anh không quan tâm đến vợ con nên chị H đã về chung sống cùng bố mẹ đẻ ở thôn P, xãQ từ tháng 3/2018 và đến cuối năm 2018 anh và gia đình có đi đón mẹ con chị H nhưng chị H không về, trong thời gian sống ly thân vợ chồng anh vẫn cùng nhau chăm sóc con chung và gia đình bên vợ có nói khi nào anh thay đổi bản thân thì cho đón vợ con về. Đến nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn anh không nhất trí ly hôn, mong muốn vợ chồng được đoàn tụ để cùng nhau nuôi dạy con chung trưởng thành.

Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có một người con chung là Hù Thị Băng Di - Sinh 29/9/2016. Vì không nhất trí ly hôn nên anh không có ý kiến gì về con chung, nếu trường hợp phải ly hôn thì anh có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh chị không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự: Chị Sần Thị H có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Bát Xát giải quyết việc hôn nhân của anh chị. Theo quy định tại khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bát Xát.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Sần Thị H và anh Hù A H kết hôn với nhau vào năm 2016 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị sống hạnh phúc đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H sử dụng ma tuý chị và gia đình đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh H không từ bỏ được, từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi cọ nhau, anh chị đã sống ly thân từ tháng 3/2018. Anh H cho rằng trong cuộc sống do anh vô tâm không quan tâm đến vợ con và do không làm chủ được bản thân nên đã mắc vào tệ nạn xã hội, mặc dù sống ly thân nhưng anh vẫn quan tâm đến vợ con và không nhất trí ly hôn. Qua xác minh tại địa phương thì trong thời gian chung sống chị H và anh H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, mặc dù đã được các tổ chức đoàn thể của thôn đã đến khuyên bảo và hoà giải nhưng không có kết quả, đến tháng 3/2018 chị H đã về nhà bố đẻ là ông Sần Văn Chiến ở thôn Pẳn, xã Q sinh sống từ đó cho tới nay. Như vậy tình cảm vợ chồng giữa chị H và anh H đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Sần Thị H đối với anh Hù A H.

[3] Về con chung: Vợ chồng anh chị có một người con chung là Hù Thị Băng Di - Sinh 29/9/2016, trong quá trình giải quyết vụ án chị H và anh H đều có nguyện vọng được nuôi con và không bên nào yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét việc giao nuôi con thì thấy rằng kể từ khi vợ chồng sống ly thân chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Di. Để đảm bảo quyền lợi cho cháu Di, xét thấy hiện nay cháu Di chưa đủ 36 tháng tuổi đang sinh sống cùng chị H, hiện nay chị H ở cùng bố mẹ có nhà cửa và thu nhập hàng tháng ổn định, đảm bảo đủ điều kiện để nuôi con và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con. Đối với anh H không có công việc và thu nhập ổn định, theo xác nhận của Bệnh viện đa khoa huyện Bát Xát thì hiện nay anh H đang điều trị Methadone tại bệnh viện. Xét yêu cầu xin nuôi con của anh H là không có căn cứ để chấp nhận. Vì vậy cần giao cháu Hù Thị Băng Di - Sinh 29/9/2016 cho chị H trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp. Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin nuôi con của chị Sần Thị H.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Quá trình giải quyết vụ án các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH quy định về án phí, lệ phí Toà án chị Sần Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án đã đảm bảo đúng quy định pháp luật về tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 51, 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyêt 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về lệ phí, án phí Tòa án giải quyết theo hướng chấp nhận đơn khởi kiện của chị Sần Thị H.

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Sần Thị H đối với anh Hù A H.

Xử cho chị Sần Thị H được ly hôn anh Hù A H Về con chung: Chấp nhận yêu cầu xin nuôi con của chị Sần Thị H, giao cháu Hù Thị Băng Di - Sinh 29/9/2016 cho chị Sần Thị H trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu Di đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Anh Hù A H không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết Về án phí: Chị H phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Từ những nhận định trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điêm a khoan 5 Điêu 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về lệ phí, án phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Sần Thị H được ly hôn anh Hù A H

2. Về con chung: Giao cháu Hù Thị Băng Di - Sinh 29/9/2016 cho chị Sần Thị H trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu Di đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Anh Hù A H không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Sau khi ly hôn anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung chị H cùng các thành viên gia đình không được cản trở.

3. Về án phí: Chị Sần Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Xác nhận chị Sần Thị H đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0003183 ngày 14/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bát Xát. Chị Sần Thị H đã nộp đủ tiền án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:03/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bát Xát - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về