Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 24/01/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 03/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/01/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 24 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 623/2018/TLST- HNGĐ ngày 05/12/2018 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 09/01/2019 giữa các đương sự: Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1987

Bị đơn: Anh Nguyễn Hồng S, sinh năm 1982.

Chị H, anh S cùng địa chỉ: Ấp A Đ, xã A T, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.(Chị H có mặt. Anh S có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 24/9/2019 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng chị Nguyễn Thị Thu H (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị và Nguyễn Hồng S cưới nhau năm 2004, đăng ký kết hôn năm 2006. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà mẹ chồng ở ấp A Đ, xã A T. Quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn; nguyên nhân do chồng có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, thường xuyên bạo hành với chị, tháng 9/2018 anh S đánh chị gây thương tích, chị dẫn con về nhà cha mẹ ruột tại huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh sống. Từ ngày chị bỏ đi anh S không có xin lỗi mà còn đe doạ chị nhiều lần. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn chị yêu cầu được ly hôn với anh S.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 người con tên Nguyễn Ngọc Yến V, sinh ngày 15/3/2007 hiện đang theo sống với chị; Nguyễn Ngọc Yến Tr, sinh ngày 05/12/2013 hiện đang theo sống với anh S. Khi ly hôn chị yêu cầu nuôi cháu V, chị đồng ý giao cháu Tr cho anh S nuôi, chị không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng có 01 xe Sirius biển số 70L1 – 102.61, 01xe Wave S biển số 59Y2-525.03 do anh S giữ. Ngoài ra không còn tài sản gì khác.

Tài sản chung yêu cầu chia đôi mỗi người 01 xe. Ngày 07/01/2019, chị H rút yêu cầu chia tài sản chung.

Nợ chung: Không có.

Tại Biên bản lấy lời khai của anh Nguyễn Hồng S (bị đơn) đối với yêu cầu của nguyên đơn ngày 04/01/2019 anh S trình bày: Nhận thấy thống nhất với lời trình bày của chị H về thời gian chung sống, thời gian ly thân, con chung, tài sản chung, nợ chung. Về nguyên nhân mâu thuẫn anh S trình bày do chị H sống không chung thuỷ, vợ chồng có những bất đồng nên thường xuyên gây gổ nhau, chị H bỏ nhà đi về bên ruột sống đến nay không về. Từ ngày chị H đi anh có gặp vợ hoà giải nhưng chị không đồng ý. Nay anh yêu cầu được ly hôn với chị H.

Con chung mỗi người nuôi 01cháu, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Nợ chung: Không có.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng:

- Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, chấp hành tốt Nội qui phiên tòa.

-Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, Điều 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

+ Chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn anh Nguyễn Hồng S.

+ Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Yến V, sinh ngày 15/3/2007 cho chị H nuôi. Giao Nguyễn Ngọc Yến Tr, sinh ngày 05/12/2013 cho anh S nuôi, chị H, anh S không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra giải quyết.

+Tài sản chung: Căn cứ Điều 244 Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Đình chỉ xét xử yêu cầu chia tài sản chung của chị Nguyễn Thị Thu H đối với anh Nguyễn Hồng S.

+ Nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, xét thấy:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Hồng S có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu H và anh Nguyễn Hồng S cưới nhau năm 2004 đăng ký kết hôn năm 2006 trên cơ sở tự nguyện nên hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống đến tháng 9/2018 vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân do vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau trong tình cảm vợ chồng, thường xuyên gây gổ nhau, chị H về nhà cha mẹ ruột sống. Từ ngày ly thân đến nay anh chị không có thiện chí hàn gắn hạnh phúc. Điều đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng chị H, anh S đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu được ly hôn của chị Nguyễn Thị Thu H đối với anh Nguyễn Hồng S là phù hợp tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình;

[3] Về con chung: Vợ chồng chị H có 02 người con cháu Nguyễn Ngọc Yến V, sinh ngày 15/3/2007 hiện đang theo sống với chị H; cháu Nguyễn Ngọc Yến Tr, sinh ngày 05/12/2013 hiện đang theo sống với anh S. Chị H, anh S yêu cầu con theo ai người đó nuôi nên giao cháu Nguyễn Ngọc Yến V cho chị H được tiếp tục nuôi; giao cháu Nguyễn Ngọc Yến Tr cho anh S được tiếp tục nuôi. Chị H, anh S không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Quá trình giải quyết cũng như tại phiên toà chị H rút yêu cầu chia tài sản chung nên căn cứ Điều 244 Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Đình chỉ xét xử yêu cầu chia tài sản chung của chị Nguyễn Thị Thu H đối với anh Nguyễn Hồng S.

[5] Nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

[6] Đối với đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng tại phiên toà; xét thấy phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[7] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ Ban thường vụ Quốc hội;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ Ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử :

1/ Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn anh Nguyễn Hồng S.

2/ Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Yến V, sinh ngày 15/3/2007 cho chị H được tiếp tục nuôi. Giao Nguyễn Ngọc Yến Tr, sinh ngày 05/12/2013 cho anh S được tiếp tục nuôi. Chị H, anh S không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra giải quyết.

Chị H, anh S có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai có quyền cản trở.

3/ Về tài sản chung: Căn cứ Điều 244 Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Đình chỉ xét xử yêu cầu chia tài sản chung của chị Nguyễn Thị Thu H đối với anh Nguyễn Hồng S. Đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án yêu cầu chia tài sản chung theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

4/ Về nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

5/ Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu H phải chịu số tiền 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 600.000 đồng chị H đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0016560 ngày 05/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng; hoàn trả chị H số tiền 300.000 đồng.

Báo cho đương sự có mặt tại phiên toà biết, được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 24/01/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:03/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về