Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 03/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 08/2019/TLST-HNGĐ ngày 01/3/2019 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2019 và Quyết định tạm ngừng phiên toà số 01/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 16 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L), sinh năm: 1988.

Nơi cư trú: tổ dân phố ĐK, thị trấn LD, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt

- Bị đơn: Anh Bon Đing Thái Ph: Sinh năm: 1979.

Nơi cư trú: tổ dân phố BB, thị trấn LD, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại tòa án, nguyên đơn chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L) trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: năm 2009, chị và anh Bon Đing Thái Ph đăng ký kết hôn hoàn toàn tự nguyện tại Ủy ban nhân dân thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. Sau khi kết hôn, chị và anh Ph chung sống được 01 năm thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Ph thường xuyên nhậu nhẹt, không lo quán xuyến gia đình. Thời gian chị mang thai cho đến khi sinh con, anh Ph cũng không chăm sóc chị. Từ năm 2010 cho đến nay vợ chồng chị đã không sống chung với nhau, anh Ph cũng không thăm hỏi và chu cấp tiền để chị nuôi con. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Bon Đing Thái Ph.

- Về con chung: Vợ chồng chị có con chung là: Kra Jan J, sinh ngày 29/6/2009, khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh Ph phải cấp dưỡng.

Ngày 03/10/2018 chị sinh cháu Kră Jăn ML, chị khẳng định cháu ML là con riêng của chị, không phải là con chung của chị và anh Ph, vì từ năm 2010 chị và anh Ph không sống chung với nhau, cũng không gặp nhau, nên sau khi ly hôn, chị có nguyện vọng được giao cháu ML cho chị trực tiếp nuôi dưỡng và không có yêu cầu gì đối với anh Ph.

- Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Theo bản tự khai ngày 19/3/2019 và biên bản lấy lời khai ngày 18/7/2019, bị đơn anh Bon Đing Thái Ph trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị L kết hôn với nhau vào năm 2009 tại Uỷ ban nhân dân thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. Hai năm đầu sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc, sau đó hai vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, không quan tâm đến nhau. Hai vợ chồng anh đã không sống chung từ năm 2011 cho đến nay. Chị L làm đơn yêu cầu được ly hôn với anh thì anh đồng ý vì anh xác định tình cảm vợ chồng không còn.

- Về con chung: Vợ chồng anh có một con chung là: Kra Jan J, sinh ngày 29/6/2009, khi ly hôn anh đồng ý giao con cho chị L nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi và anh không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về cháu Kră Jăn ML, anh khẳng định vợ chồng anh không sống chung đã 10 năm nay, không hề gặp nhau lần nào, do vậy, cháu Kră Jăn ML không phải là con chung của anh và chị L, anh ko liên quan đến cháu ML.

- Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Tại bản tự khai ngày 21/3/2019, cháu Krăn Jăn J trình bày: lâu nay cháu sống với mẹ nên ba mẹ ly hôn cháu có nguyện vọng được sống với mẹ.

Theo các biên bản xác minh tại chính quyền địa phương thể hiện: vợ chồng chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L) và anh Bon Đing Thái Ph đã không sống chung từ năm 2010. Từ năm 2010 đến nay, chị L có chung sống với ai hay không thì địa phương không nắm rõ. Về con chung: chị L và anh Ph có một con chung là cháu Kra Jan J, sinh ngày 29/6/2009. Đối với cháu Kră Jăn ML sinh ngày 03/10/2018, khi chị L thực hiện thủ tục khai sinh đã không đăng ký tên người cha và có yêu cầu để trống phần tên cha.

Toà án nhân dân huyện Lạc Dương đã triệu tập hợp lệ anh Bon Đing Thái Ph đến phiên họp về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải nhưng anh Ph vắng mặt không có lý do nên Toà án không tiến hành hoà giải được.

Tại phiên toà, chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L) giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Dương phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Tòa án xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, nguyên đơn, bị đơn và thu thập chứng cứ theo đúng quy định tại các Điều 28, 35, 48, 191, 195, 196, 203, 207 đến 211 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa, Thư ký, Hội đồng xét xử chấp hành đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xác định mâu thuẫn giữa chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L) và anh Bon Đing Thái Ph đã trầm trọng kéo dài, không thể quay về chung sống để cùng nhau nuôi dưỡng con cái, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của chị L, chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L) và anh Bon Đing Thái Ph được ly hôn.

Về con chung: đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Kra Jan J, sinh ngày 29/6/2009 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh Ph không phải cấp dưỡng nuôi con. Riêng cháu Kră Jăn ML, sinh ngày 03/10/2018, cả hai bên đều thừa nhận là con riêng của chị L nên giao cháu ML cho chị L chăm sóc, nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án hôn nhân và gia đình về việc“Tranh chấp ly hôn” giữa nguyên đơn chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L) với bị đơn anh Bon Đing Thái Ph, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, bị đơn anh Bon Đing Thái Ph đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Ph.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L) và anh Bon Đing Thái Ph đăng ký kết hôn vào năm 2009 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên, sau khi kết hôn được một năm, quá trình chung sống giữa chị L và anh Ph xảy ra mâu thuẫn. Từ năm 2010 cho đến nay, vợ chồng chị L và anh Ph đã không cùng chung sống với nhau. Chị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Bon Đing Thái Ph. Anh Bon Đing Thái Ph đồng ý ly hôn với chị L vì xác định tình cảm vợ chồng không còn.

Hội đồng xét xử nhận thấy tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh Ph đã trầm trọng, không còn sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cuộc sống chung không tồn tại đã nhiều năm, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu của chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L) ly hôn với anh Bon Đing Thái Ph.

Về con chung: Vợ chồng chị L và anh Ph có con chung là: Kra Jan J, sinh ngày 29/6/2009, khi ly hôn chị L có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh Ph phải cấp dưỡng nuôi con. Anh Ph đồng ý giao cháu Kra Jan J cho chị L nuôi dưỡng và không phải cấp dưỡng nuôi con. Cháu Kra Jan J hiện đang sống với mẹ và cũng có nguyện vọng được sống với mẹ. Do vậy, giao cháu Kra Jan J cho chị L trực tiếp nuôi là phù hợp. Chị L không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét.

Về cháu Kră Jăn ML: Tuy cháu được sinh ra vào ngày 03/10/2018 là trong thời kỳ hôn nhân của chị L và anh Ph, chị L trình bày cháu ML là con của chị với một người khác, cả anh Ph và chị L đều khẳng định không phải là con chung, nên cần xác định cháu ML là con riêng của chị L. Chị L có nguyện vọng được giao cháu ML cho chị nuôi dưỡng, chị không có yêu cầu gì đối với anh Ph. Do vậy, giao cháu ML cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh Ph không phải cấp dưỡng nuôi cháu ML là có căn cứ.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

[3] Về án phí: Chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L) phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147 và Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56, 58 Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L). Nguyên đơn chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L) và bị đơn anh Bon Đing Thái Ph được ly hôn.

2. Về con riêng: Giao cháu Kră Jăn ML, sinh ngày 03/10/2018 cho chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L) trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

3. Về con chung: Giao cháu Kra Jan J, sinh ngày 29/6/2009 cho chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L) trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

4. Về án phí: Chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L) phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0008831 ngày 01/3/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Kră Jăn L (Kră Jăn K’L) có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Anh Bon Đing Thái Ph vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:03/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về