Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 14/03/2018 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 03/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/03/2018 VỀ LY HÔN

Trong ngày 14 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở TAND huyện Phú Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 197/2018/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2018 về việc kiện ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXX-ST ngày 28 tháng 01 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22/02/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1990

HKTT: Thôn Q, xã Tr, huyện X, Thành phố Hà Nội.

Nơi ở: Thôn Th, xã L, huyện X, Thành phố Hà Nội.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1986

HKTT và trú tại: Thôn Q, xã Tr, huyện X, Thành phố Hà Nội.

Chị Ng có mặt, anh S vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và những lời khai tại Toà, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ng trình bày:

- Về hôn nhân: Chị Ng và anh Nguyễn Văn S tự nguyện kết hôn vào ngày 07/12/2009, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tr, huyện X, Thành phố Hà Nội. Sau khi cưới, chị về chung sống với anh S ngay tại gia đình anh Soái. Quan hệ vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, mỗi người có một quan điểm lối sống khác nhau, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống, hơn nữa anh S chơi bời, không quan tâm đến gia đình. Tháng 10 năm 2017 chị đã bỏ anh S về gia đình nhà đẻ ở thôn Th, xã L, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội và ly thân từ đó cho đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, hạnh phúc không có, chị đề nghị được ly hôn anh S.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Trường A, sinh ngày 12/9/2010 và cháu Nguyễn Trường G, sinh ngày 12/9/2010. Hiện nay cả hai con chung đang ở với chị. Ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con chung, không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa giải quyết.

- Về công nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về phía anh Nguyễn Văn S:

Quá trình giải quyết vụ án, anh S không đến Tòa làm việc, nên Tòa án kết hợp với UBND xã Nam Triều, Trưởng thôn Nam Quất đến tận nhà anh S tống đạt trực tiếp cho anh S, Thông báo về việc thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòagiải, nhưng anh S vẫn không đến tòa làm việc. Tòa án cũng niêm yết các văn bản tố tụng tại nhà anh Soái, UBND xã Nam Triều, Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên theo quy định của pháp luật.

Mặc dù đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ, nhưng anh Soái cố tình không đến Tòa làm việc, nên không rõ quan điểm của anh Soái.

Tại phiên toà: Chị Nguyễn Thị Ng giữ nguyên yêu cầu của mình.

Đại diện VKSND huyện Phú Xuyên tham gia phiên toà phát biểu về việc giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về thủ tục tố tụng của Pháp luật TTDS trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ nghĩa vụ tố tụng, bị đơn chưa chấp hành đầy đủ nghĩa vụ tố tụng của mình.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Ng; giao cả 02 con chung là cháu Nguyễn Trường A, sinh ngày 12/9/2010 và cháu Nguyễn Trường G, sinh ngày 12/9/2010 cho chị N trực tiếp, nuôi dưỡng, chăm sóc và không xem xét quan hệ tài sản chung vợ chồng do chị Ngần không yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về tố tụng: Mặc dù vào thời điểm Tòa án tiến hành giải quyết vụ án, anh Nguyễn Văn S vẫn có mặt tại nơi cư trú, Tòa án đã tiến hành giao, niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng vẫn không thấy anh Soái đến Tòa làm việc, nên bị coi là trường hợp bị đơn cố tình không đến Tòa làm việc; vì vậy, không cần sự có mặt của anh S, Tòa án vẫn tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Về hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Ng và anh Nguyễn Văn S, tuy là cuộc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ có đăng ký kết hôn tại UBND xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội, thời gian chung sống với nhau được gần 10 năm, sau đó cả hai không chung sống với nhau nữa, bằng việc chị Ngần bỏ về gia đình nhà đẻ ở và ly thân đã nhiều năm nay, là một bằng chứng nói lên quan hệ hôn nhân giữa chị Ng và anh S tuy không rõ nguyên nhân từ đâu, song đã ẩn chứa những mâu thuẫn, bất đồng hết sức nghiêm trọng.

Do thời gian ly thân đã nhiều năm, mọi níu kéo trở nên vô vọng, tình cảm vợ chồng không còn, phía chị Ng quyết định xin ly hôn anh S. Quá trình tố tụng, việc anh Soái cố tình không chịu đến tòa làm việc không chỉ thể hiện thái độ không tôn trọng cơ quan tố tụng mà ở một góc độ khác còn thể hiện ý thức không mong muốn hòa giải đoàn tụ vợ chồng. Xác minh tại nơi cư trú, chính quyền địa phương cũng xác nhận, mâu thuẫn giữa các bên là không thể hàn gắn và trên thực tế quan hệ hôn nhân thực sự chấm dứt đã nhiều năm nay.

Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Ngần và anh Soái đã thực sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, không còn ý nghĩa. Vì vậy, yêu cầu của chị N xin ly hôn anh Soái là có cơ sở, nên áp dụng các quy định tại các Điều 51, 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 39 của BLDS chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Ngần, cho chị Ngần được ly hôn với anh Nguyễn Văn Soái.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Trường An, sinh ngày 12/9/2010 và cháu Nguyễn Trường Giang, sinh ngày 12/9/2010. Do anh Soái không đến Tòa làm việc, nên giao cả hai con chung cho chị Ngần nuôi dưỡng và tạm miễn cho anh S việc góp phí tổn nuôi con.

Về tài sản chung: Do chị Ng không yêu cầu giải quyết; quá trình giải quyết vụ án, anh Soái không đến Tòa làm việc, nên chưa có đầy đủ căn cứ xác định được tài sản chung, công nợ chung của vợ chồng. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt nên phần tài sản, công nợ của vợ chồng, cần tách ra chưa xét trong vụ án này và sẽ được giải quyết trong vụ án khác nếu có tranh chấp phát sinh .

Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Điều 39 BLDS; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án tuyên xử: 

1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Ng được ly hôn anh Nguyễn Văn S.

2. Về con chung: Giao chị Nguyễn Thị Ng trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Trường A, sinh ngày 12/9/2010 và cháu Nguyễn Trường G, sinh ngày 12/9/2010. Tạm miễn việc góp phí tổn nuôi con cho anh Soái đến khi chị Ngần có yêu cầu hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật. Anh S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ vào khoản tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tại biên thu tạm ứng án phí số AE/2010/0005200 ngày 12/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên. Chị N đã nộp đủ án phí án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 14/03/2018 về ly hôn

Số hiệu:03/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về