Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 01/04/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 03/2019/HNGĐ-ST NGÀY 01/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 01 tháng 04 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 714/2018/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2018 về “Xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/QĐST-HNGĐ ngày 18/02/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1990

Trú tại: đường T, Phường H, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng.

Chổ ở: đường V, phường H, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng.

Bị đơn: Ông Phạm Văn P, sinh năm 1979

Trú tại: đường T, Phường H, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng.

(bà H có mặt, ông P vắng mặt )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 12 tháng 10 năm 2018 nộp tại Tòa án thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị bà Nguyễn Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: bà Nguyễn Thị H với ông Phạm Văn P chung sống với nhau từ năm 2007 đến năm 2008 thì đăng ký kết hôn, tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố D, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quan, sau khi kết hôn vợ chồng sống tại đường T, phường H, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng được một thời gian thì ông P chuyển sang sống tại: đường V, phường H, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng. Sau một thời gian vợ chồng chuyển sang sống lại tại: đường T, phường H, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc từ khi kết hôn đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân: Do bất đồng quan điểm sống, ông P thường xuyên nhậu nhẹt, say xỉn, cờ bạc, bà H cũng đã nhiều lần khuyên bảo ông P nhưng ông P không từ bỏ mà vẫn ham chơi không lo cho gia đình. Vợ chồng vẫn sống chung nhưng không có tình cảm, cuộc sống mạnh ai nấy lo không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, quan hệ hôn nhân không thể hàn gắn được. Nên bà H yêu cầu tòa cho bà được ly hôn ông P.

Về con chung: có 02 con chung tên Phạm Khánh H, sinh ngày 02/11/2007 và Phạm Nguyễn Văn H, sinh ngày 05/9/2009. Hiện nay các con đang ở với bố mẹ, ly hôn hôn tôi yêu cầu được nuôi cả hai con đến khi thành niên. Không yêu cầu ông Phước cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có .

Về nợ chung: không có.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, đã tống đạt, niêm yết thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, kết quả tiếp cận công khai chứng cứ theo quy định của pháp luật nhưng ông Phạm Văn Phước cũng không đến tòa. Nên tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên Tòa hôm nay: Bà Nguyễn Thị H yêu cầu xin ly hôn ông Phạm Văn P và yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Đại diện viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Vụ án thụ lý chậm hơn theo luật quy định. Về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán từ khi nhận đơn đến lúc đưa vụ án ra xét xử, xác định tư cách tham gia tố tụng, tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự cũng như chứng cứ của vụ án, việc hòa giải đều đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đảm bảo đúng quy định.

Về quan hệ hôn nhân: Giữa bà Nguyễn Thị H và ông Phạm Văn P là hợp pháp, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc từ khi kết hôn đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do không hợp tính cách, ông P thường xuyên nhậu nhẹt, say xỉn, bài bạc không lo cho vợ con, bà H đã nhiều lần bỏ qua cho ông P nhưng ông P không sửa đổi. Nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn bà Hoa .

Về con chung: Giao có 02 con chung tên Phạm Khánh H, sinh ngày 02/11/2007 và Phạm Nguyễn Văn H, sinh ngày 05/9/2009 cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con thành niên. Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình hòa giải bà H không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con chung nên không đề cập.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Xuất phát từ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H yêu cầu ly hôn ông Phạm văn P, nên xác định quan hệ tranh chấp“Ly hôn” theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hiện nay ông Phạm Văn P hiện đang tạm trú tại: đường T, phường H, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng, nên căn cứ Điều 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng giải quyết.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập, niêm yết hợp lệ nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Do đó căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Giữa bà Nguyễn Thị H và ông Phạm Văn P chung sống với nhau từ năm 2007 đến năm 2008 mới đăng ký kết hôn, việc kết hôn của bà H và ông P trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân, phường H, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng nên quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông P là hợp pháp. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do không hợp tính cách, ông P thường xuyên nhậu nhẹt, xay xin, bài bạc gây nợ nần không lo gia đình, con cái nên vợ chồng thường xuyên cải vã, vợ chồng cũng đã ngồi lại với nhau để tìm cách giải quyết nhưng không có kết quả. Tại phiên tòa chị hôm nay bà H cũng trình bày sau khi kết hôn sống tại: đường T, phường H, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng được một thời gian thì ông P chuyển sang sống tại: đường V, phường H, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng. Cũng được một thời gian thì chuyển về sống lại tại: đường T, phường H, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng. Việc ly hôn của vợ chồng đã được gia đình hai bên đã động viên, khuyên bảo nhưng cũng không có kết quả và bà H cũng cho ông P nhiều cơ hội để sữa lỗi lầm, để có gia đình hạnh phúc nhưng ông P không vẫn sữa đổi. Nay bà H xác định không còn tình cảm với ông P nên xin được ly hôn.

Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay ông Phước đã được triệu tập, tống đạt, niêm yết hợp lệ nhưng vẫn không đến tòa thể hiện sự không mong muốn đoàn tụ gia đình. Qua biên bản xác minh tại khu phố việc mâu thuẫn của vợ chồng bà Hoa tổ không biết nên không có cơ sở để hòa giải. Do đó chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị H.

[4] Về con chung: bà H xác định vợ chồng có hai con chung tên Phạm Khánh H, sinh ngày 02/11/2007 và Phạm Nguyễn Văn H, sinh ngày 05/9/2009, hiện nay đang ở với bố, mẹ là bà H, ông P. Để đảm bảo quyền lợi, sự phát triển bình thường của trẻ em và cũng tại biên bản lấy lời khai của hai cháu H và H đều thể hiện mong muốn được ở với mẹ. Nên tiếp tục giao hai cháu tên Phạm Khánh H và Phạm Nguyễn Văn H cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con thành niên.

[5] Về trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con: bà Nguyễn Thị H không yêu cầu ông Phạm Văn P cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[6] Về tài sản chung: Không có.

[7] Về nợ chung: Không có.

[8] Về án phí: bà Nguyễn Thị H phải chịu toàn bộ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 36, 39, 147 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Căn cứ vào Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2014/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và xử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị H. Cho bà Nguyễn Thị H và ông Phạm Văn P được ly hôn.

2. Về nuôi con chung:

2.1 Giao con hai con chung tên tên Phạm Khánh H, sinh ngày 02/11/2007 và Phạm Nguyễn Văn H, sinh ngày 05/9/2009 cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên.

2.2 Về trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con: bà H không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con chung.

Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp, không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, quyền thăm nom con, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về án phí: bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm (được trừ toàn bộ vào số tiền 300.000đồng bà H đã tạm nộp theo biên lai thu số: AA/2016/0008683 ngày 29 tháng 11 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt).

Quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị H có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án lên Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Riêng ông Phạm Văn P vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc (niêm yết) bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 01/04/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:03/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về