Bản án 03/2019/DS-ST ngày 22/10/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIÊN HẢI, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 03/2019/DS-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 22 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiên Hải tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm cêng khai vụ án dân sự thụ lý số: 23/ 2017/ TLST-DS ngày 04 tháng 04 năm 2017 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2019/QĐXXST-DS, ngày 01 tháng 7 năm 2019 và tHông báo mở lại phiên tòa số: 01/2019/TB-TA ngày 26/9/2019 giữa các đương sự:

* Nguyễn đơn: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm: 1970 (có mặt); và bà Nguyễn Thị Cẩm Nh, sinh năm: 1978(có đơn xin vắng mặt và có giấy ủy quyền cho bà Thu);

Địa chỉ: tổ 11, ấp An Phú, Xã Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang.

* Bị đơn: - Bà Lưu Thị Cẩm L, sinh năm: 1978 (có mặt);

Địa chỉ: ấp An Bình, Xã Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang.

- Bà Phạm Thị Mộng T, sinh năm: 1976 (vắng mặt);

Địa chỉ : ấp Củ Tron, Xã An Sơn, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/. ông: Phạm Văn T, sinh năm: 1978(vắng mặt) Địa chỉ : ấp Củ Tron, Xã An Sơn, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang.

2/. ông Nguyễn Văn L, sinh nănm: 1978(vắng mặt) Địa chỉ : ấp An Bình, Xã Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện được Tòa án thụ lý, các Nguyễn đơn xác định nội dung vụ kiện như sau:

Nguyễn vào ngày 05 tháng 12 năm 2014, Nguyễn đơn có cho bà Lưu Thị Cẩm L và bà Phạm Thị Mộng T vay 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) với phí chuyển tiền bằng 300.000đ. Khi vay hai bên có làm biên nhận thỏa thuận thời hạn cho vay là không quá bảy ngày và không có thỏa thuận lãi suất. Sau khi bà T và bà L nhận tiền thì đến ngày 01/01/2015, bà L trả cho Nguyễn đơn được 15.000.000đ; Ngày 05/01/ 2015 trả được 10.000.000đ và ngày 12/01/2015 trả được 15.000.000đ. Tổng cộng phía bà L trả được: 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng). Số còn lại: 60.000.000,đ( sáu mươi triệu đồng) từ đó đến nay bà L, bà T không trả. Ngày 15/5/2015, khi Nguyễn đơn khiếu kiện ra Ban hòa giải ấp thì bà L hứa 15 ngày sẽ trả nhưng vẩn không thực hiện.

Từ nội dung trên, Nguyễn đơn đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện Kiên Hải yêu cầu buộc bà Lưu Thị Cẩm L và bà Phạm Thị Mộng T phải trả cho bà Th, bà Nh số tiền còn lại bằng: 60.000.000,đ( sáu mươi triệu đồng) và tiền lãi theo qui định pháp luật kể từ ngày 12/01/2015. Ngoài ra, Nguyễn đơn không còn yêu cầu gì khác.

* Bị đơn: bà Lưu Thị Cẩm L thừa nhận vào ngày 05 tháng 12 năm 2014, bà và bà Phạm Thị Mộng T có đến gặp bà Th và bà Nh vay 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) với phí chuyển tiền bằng 300.000đ. Khi vay hai bên có làm biên nhận thỏa thuận thời hạn cho vay là bảy ngày và không có thỏa thuận lãi suất. Sau khi nhận tiền bà L thừa nhận có ký vào biên nhận và cùng bà T nhận tiền, sau đó phía bà T có gửi tiền nhờ bà L trả ba lần. Cụ thể: Ngày 01/01/2015, bà L trả cho Nguyễn đơn được 15.000.000đ; Ngày 05/01/ 2015 trả được 10.000.000đ và ngày 12/01/2015 trả được 15.000.000đ. Tổng cộng phía bà L trả được 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng). Số còn lại 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) từ đó đến nay bà T không gửi về nên bà L không có tiền trả và ngày 15/5/2015, bà Th, bà Nh khiếu kiện ra Ban hòa giải ấp thì bà L hứa sau 15 ngày khi bà T gửi tiền về sẽ trả nhưng bà T không gửi về nên bà L vẩn không trả dùm bà T được. Từ đó, bà L không thừa nhận có nợ chung với bà T khoản tiền: 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) này.

Tuy nhiên, sau khi Tòa án huyện Kiên Hải thụ lý giải quyết thì phía bà Phạm Thị Mộng T có đến Tòa án làm tự khai thừa nhận còn nợ Nguyễn đơn bằng: 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) và xin trả mỗi tháng 3.000.000đ cho đến khi dứt nợ. Ngoài ra, bà Lvà bà T không có yêu cầu phản tố cũng như các yêu cầu nào khác.

* Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ông: Phạm Văn T là chång bà Phạm Thị Mộng T cho rằng ông còng cã ý kiÕn thèng nhÊt việc nợ của bà T. Ngoài ra, ông T không có yêu cầu nào khác;

- Ông Nguyễn Văn L là chồng bà Lưu Thị Cẩm L cho rằng không biết việc vay nợ cña bà L nhưng qua lấy lời khai ông cũng có ý kiến thống nhất như bà L nhưng không hợp tác ký vào biên bản. Ngoài ra, ông L không có yêu cầu nào khác;

Tại phiên tòa hêm nay cũng như trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự có ý kiến như sau:

- Nguyễn đơn rút phần yêu cầu bà Lưu Thị Cẩm L trả nợ và chỉ yêu cầu buộc bà Phạm Thị Mộng T và ông Phạm Văn T phải trả số tiền còn lại bằng: 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) và tiền lãi theo qui định pháp luật từ ngày 12/01/2015 đến ngày xét xử 22/10/2019. Ngoài ra, Nguyễn đơn không còn yêu cầu gì khác.

- Bị đơn: Bà Lưu Thị Cẩm L thừa nhận ký vào biên nhận ngày 05/12/2014 nhưng không thừa nhận nợ Nguyễn đơn số tiền còn lại bằng: 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng). Bà Phạm Thị Mộng T vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong tự khai ngày 20/04/2017 thừa nhận còn nợ Nguyễn đơn bằng: 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) và xin trả mỗi tháng 3.000.000đ cho đến khi dứt nợ. Ngoài ra, bà L và bà T không có yêu cầu phản tố cũng như các yêu cầu nào khác.

- Nh÷ng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Phạm Văn T là chång bà Phạm Thị Mộng T vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong tự khai ngày 20/04/2017 ông cã ý kiÕn thèng nhÊt việc nợ của bà T;

Riêng đối với ông Nguyễn Văn L là chồng bà Lưu Thị Cẩm L cho rằng không biết việc vay nợ của bà L, qua lấy lời khai cũng có ý kiến thống nhất như bà L nhưng không hợp tác ký vào biên bản;

Tại phiên tòa hêm nay, Kiểm sát viên cho rằng kể từ ngày thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử, các đương sự, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định định pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, Tòa án vẫn còn để vụ kiện kéo dài quá hạn luật định. Về ý kiến giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các Nguyễn đơn đối với bà Phạm Thị Mộng T, đình chỉ yêu cầu của Nguyễn đơn đới với bà Lưu Cẩm L và chỉ buộc phía vợ chồng bà Phạm Thị Mộng T và ông Phạm Văn T phải trả cho bà Th, bà Nh số tiền còn lại bằng: 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) và tiền lãi theo qui định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu hồ sơ chứng cứ có trong vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa – Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

[1] Về thủ tục: Bà Phạm Thị Mộng T là bị đơn và ông Phạm Văn T và ông Nguyễn Văn L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt Tòa án đã lập thủ tục và niêm yết hợp lệ nên Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

[2] Trong vụ án này, các Nguyễn đơn tiến hành khởi kiện được Tòa án thụ lý là đúng thẩm quyền và phù hợp với quy định pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hêm nay, cũng như qua phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận cêng khai chứng cứ và hòa giải các bên đã khẳng định yêu cầu của mình nên vụ kiện không có yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ kiện: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” được quy định tại Điều 471, 473, 474, 478 Bộ luật Dân sự 2005;

[3] Về nội dung: Qua thẩm vấn các đương sự tại phiên tòa, sau khi đối chiếu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cho thấy vào ngày 05 tháng 12 năm 2014, bà Lưu Thị Cẩm L và bà Phạm Thị Mộng T có đến gặp bà Nguyễn Thị Th và bà Nguyễn Thị Cẩm Nh vay 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) với phí chuyển tiền bằng 300.000đ. Khi vay hai bên có làm biên nhận thỏa thuận thời hạn cho vay là bảy ngày và không có thỏa thuận lãi suất nên Hội đồng xét xử xác định đây là thỏa thuận vay tài sản có thời hạn và không có lãi được quy định tại khoản 1 Điều 478 Bộ luật Dân sự 2005. Như vậy, khi các bên xảy ra tranh chấp thì căn cứ vào các quy định về hợp đồng vay tài sản để giải quyết là phù hợp pháp luật.

[4] Xét yêu cầu của Nguyễn đơn tại phiên tòa cũng như trong quá trình giải quyết vụ án, cho thấy các đương sự có mối quan hệ gắn kết với nhau bà L và bà T thường xuyên qua lại tiền bạc và trên thực tế lần này bà T và bà L có ký vay và nhận tiền: 100.000.000đ. Sau đó, chính bà L lại mang tiền trả nợ cho bà Th ba lần nên số nợ còn lại là: 60.000.000,đ( sáu mươi triệu đồng). Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án phÝa bà T thừa nhận khoản nợ này và xin trả mỗi tháng 3.000.000đ cho đến khi dứt nợ. Do vậy, Hội đồng xét xử cho rằng việc thỏa thuận vay tiền giữa các đương sự là có thật và đây là căn cứ xác lập giao dịch về vay tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 478 Bộ luật dân sự và bà T phải có trách nhiệm trả cho bà Th, bà Nh số tiền vèn còn lại bằng: 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) và tiền lãi theo qui định pháp luật kể từ ngày 12/01/2015 là phù hợp.

[5] Đối với ông Phạm Văn T mặc dù không trực tiếp giao dịch vay tài sản nhưng khoản nợ: 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) được bà T thừa nhận là trong thời kỳ Hôn nhân giữa ông T và bà T nên Hội đồng xét xử xác định đây là nợ chung của vợ chồng và ông T cũng phải có nghĩa vụ cùng bà T trả khoản nợ này cho Nguyễn đơn.

Đối với ông Nguyễn Văn L là chồng bà L cho rằng không biết việc vay nợ giữa bà Th, bà Nh và bà T, bà L Trong quá trình giải quyết vụ án, do phía ông L không hợp tác nên Tòa án đã lập thủ tố tụng kết hợp xét xử vắng mặt và không xem xét ý kiến của các ông trong vụ kiện này.

[6] Tại phiên tòa hêm nay, căn cứ vào ý kiến các đương sự và lời đề nghị của Kiểm sát viên. Sau khi nghị án Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của Nguyễn đơn là có cơ sở. Tuy nhiên, do ngày 20/04/2017 bà T có đến Tòa án tự khai thừa nhận còn nợ Nguyễn đơn bằng: 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) và xin trả mỗi tháng 3.000.000đ cho đến khi dứt nợ. Do vậy, bà L thật sự không có nợ và Hội đồng xét xử sẽ xem xét đình chỉ phần yêu cầu của Nguyễn đơn đối với bà L và chỉ buộc vợ chồng bà T và ông T phải có trách nhiệm trả cho Nguyễn đơn số tiền vốn bằng: 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng) và tính lãi cho Nguyễn đơn theo qui định tại điểm c Điều 2 Nghị quyết số: 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 và khoản 2 Điều 357, khoản 4 Điều 466, khoản 2 Điều 468 BLDS 2015 với lãi suất xác định bằng: 50% lãi suất giới hạn của: 20%/năm, tức là: 10%/năm để tính lãi trả cho bà Thu, bà Nhung từ ngày 12/01/2015 đến ngày 22/10/2019 bằng: [(60.000.000đ X 0,027%/ngày) X 1.745 ngày] = 28.269.000đ ( Hai mươi tám triệu hai trăm sáu mươi chín ngàn đồng). Như vậy, tổng cộng số tiền bà T, ông T phải trả cho Nguyễn đơn bằng: 88.269.000đ ( Tám mươi tám triệu hai trăm sáu mươi chín ngàn đồng).

[7] Về án phí trong vụ kiện này, do yêu cầu của Nguyễn đơn được chấp nhận nên bà Phạm Thị Méng T và ông Phạm Văn T phải chịu án phí giá ngạch trên tổng giá trị tranh chấp bằng: [88.269.000đ x 5%] = 4.413.450đ (Bốn triệu, bốn trăm mươi ba ngàn, bốn trăm năm mươi đồng). Trả lại số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp cho bà Nguyễn ThÞ Th theo biên lai thu số 02626 ngày 29/3/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 26, Điều 147, Điều 244, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ Điều 463, Điều 466, Điều 471, Điều 473, Điều 474 và Điều 478 Bộ luật dân sự 2005; Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015; Khoản 2 Điều 27, Điều 37 Luật Hôn nhân gia đình.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

* Tuyên bố: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Th và bà Nguyễn Thị Cẩm Nh đối với bà Phạm Thị Méng T;

+ Đình chỉ phần yêu cầu khởi kiện của Nguyễn đơn đối với bà Lưu Thị Cẩm L;

+ Xử buộc: bà Phạm Thị Méng T và ông Phạm Văn T phải trả cho bà Nguyễn Thị Th và bà Nguyễn Thị Cẩm Nh số tiền bằng: 88.269.000đ đ (Tám mươi tám triệu, hai trăm sáu mươi chín ngàn đồng). Trong đó: tiền vốn bằng: 60.000.000đ và tiền lãi bằng: 28.269.000đ kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật;

Kể từ ngày bà Nguyễn Thị Th và bà Nguyễn Thị Cẩm Nh có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà T và ông T không trả số tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu lãi theo quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Về án phí: bà Phạm Thị Mộng T và ông Phạm Văn T phải chịu án phí giá ngạch trên tổng giá trị tranh chấp bằng: 4.413.450đ (Bốn triệu, bốn trăm mươi ba ngàn, bốn trăm năm mươi đồng). Trả lại số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp cho bà Nguyễn Thị Th theo biên lai thu số 02626 ngày 29/3/2017 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 22/10/2019), đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt bản án hợp lệ theo qui định pháp luật.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Các Điều 7a,7b Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/DS-ST ngày 22/10/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:03/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiên Hải - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về