Bản án 03/2018/HS-ST ngày 31/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 03/2018/HS-ST NGÀY 31/01/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án N dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2017/TLST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2018/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Lê Nguyễn Thành N (tên gọi khác: Tý), sinh năm 1992 tại Bình Dương; nơi đăng ký thường trú: Ấp Đ, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương; nơi sinh sống: Ấp C, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thành T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Ngọc T; tiền án: ngày 20- 02-2012 bị Tòa án N dân huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong ngày 12-3-2016; tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 29 tháng 8 năm 2017, sau tạm giam cho đến nay; có mặt.

2. Nguyễn Thanh L, sinh ngày 13 tháng 11 năm 1999 tại Trà Vinh; nơi đăng ký thường trú: khóm 3, thị trấn M, huyện N, tỉnh Trà Vinh; nơi sinh sống: Ấp Đ, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh T và bà Đỗ Thị Cẩm L; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 29 tháng 8 năm 2017, sau tạm giam cho đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Khúc Văn C, sinh năm 1992; nơi cư trú: ấp B, xã U, huyện B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

+ Anh Trịnh Thành S, sinh năm 1983; nơi cư trú: Ấp Đ, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

+ Anh Hoàng Văn B, sinh ăm 1996; nơi cư trú: khu phố A, phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

+ Bà Lương Thị Thu H, sinh năm 1967; nơi cư trú: Ấp Đ, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Lê Nguyễn Thành N và Nguyễn Thanh L quen biết nhau, cả hai đều là đối tượng sử dụng ma túy.

Khoảng đầu tháng 8 năm 2017 đến 29-8-2017, để có tiền tiêu xài và sử dụng ma túy, N đã nhiều lần đến huyện C, thành phố Hồ Chí Minh mua ma tuý (heroin) và ma túy dạng đá của đối tượng tên T (không rõ lai lịch), mỗi lần mua ma tuý (heroin) với giá 250.000 – 500.000 đồng và ma túy dạng đá với giá từ 250.000 – 500.000 đồng. Số ma tuý (heroin) mua được, N mang về nhà phân nhỏ thành 13 tép bỏ vào ống hút được hàn kín hai đầu bán cho con nghiện với giá 100.000 một tép, ma túy dạng đá N để sử dụng. Khi con nghiện cần mua ma tuý (heroin) thì điện thoại vào số 01863640020 cho N, N mang ma tuý đến điểm mà các nghiện đã hẹn bán cho con nghiện. Nếu các con nghiện điện thoại mua ma túy (heroin) mà N không đi bán được thì N nhờ L đi bán giúp N. Trước khi nhờ L đi bán ma túy giúp N, N cho L sử dụng ma túy dạng đá, sau đó N đưa cho L điện thoại di động có số thuê bao 01863640020 để liên lạc và bán ma túy cho các con nghiện.

Lúc 14 giờ 43 ngày 29/8/2017, Khúc Văn C, sinh năm 1992, trú tại thôn 2, xã Q, huyện X, tỉnh Thanh Hóa  dùng số điện thoại 01642002721 điện thoại cho N hỏi mua 01 tép ma túy (heroin) với giá 100.000 đồng và hẹn địa điểm mua bán tại trước cổng công ty P tại Ấp Đ, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương. N đồng ý. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, N đến phòng của L tại Ấp Đ, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương, Tại đây, N cho L sử dụng ma túy dạng đá, sau đó N đưa L 01 tép ma túy (heroin), 01 điện thoại có số thuê bao 01863640020 cho, nhờ L đến trước cổng công ty P liên lạc với C để bán ma túy (heroin) cho C, L Đồng ý. L mượn xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen biển số 61C1- 295.60 (do bà Lương Thị Thu H sinh năm 1967 trú tại khu phố A, phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương là chủ sở hữu) của Hoàng Văn B sinh năm 1996 trú tại khu phố A, phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương đến công ty P. Đến khoảng 15 giờ 45 cùng ngày, L đến trước cổng công ty P thì điện cho C để bán ma túy, khi cả hai dang thực hiện hành vi mua bán ma túy thì bị lực lượng Công an huyện Bàu Bàng bắt quả tang. Vật chứng thu giữ:

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen biển số 61C1-295.60.

- 01đoạn ống hút bằng nhựa được hàn kín 02 đầu và được niêm phong ký hiệu M1.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia RM-908

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO Neo 9

- 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng).

Đến 16 giờ ngày 29-8-2017, Công an huyện Bàu Bàng tiến hành bắt khẩn cấp Lê Nguyễn Thành N và thu giữ trong người có 12 đoạn ống hút hàn kín hai đầu trong đó: 10 đoạn ống hút màu xanh nước biển sọc trắng hàn kín hai đầu được niêm phong và kí hiệu M2-1, 01 đoạn ống hút màu xanh lá cây hàn kín hai đầu được niêm phong và kí hiệu M2-2, 01 đoạn ống hút màu cam hàn kín hai đầu được niêm phong và kí hiệu M2-3. N khai là ma túy (heroin). 02 gói nylon hàn kín hai đầu bên trong có chứa tinh thể màu trắng kí hiệu M3, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm: 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh, sọc trắng, 01 đầu uốn cong, 01 bình thủy tinh; 01 ống thủy tinh nối ống hút nhựa, 01 bình ga hột quẹt, 01 lưỡi dao lam; 01 keo kim loại màu trắng, 01 ống kim tiêm đã qua sử dụng.

Quá trình điều tra bị cáo L đã khai nhận trước ngày bắt quả tang khoảng 5- 6 ngày, ở bến xe khách Bàu Bàng thuộc ấp Đ, xã U, huyện B, tỉnh Bình Dương, L còn giúp N bán ma túy cho C với giá 100.000 đồng. N khai nhận, từ đầu tháng 8/2017, N mua ma túy cho C từ 07 đến 08 lần, giá mỗi lần 100.000 đồng, Trịnh Sơn T sinh năm 1983, chỗ ở hiện nay, Ấp Đ, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương từ 04 đến 05 lần, mỗi lần giá 100.000 đồng. Đối tượng tên C (không rõ họ tên, địa chỉ) từ 4 đến 5 lần, mỗi lần 100.000 đồng, thu lợi bất chính số tiền là 1.000.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Người bị hại không có ý kiến gì về hành vi phạm tội của bị cáo.

Về các vấn đề khác của vụ án:

Theo kết luận giám định số 397/MT-PC54 ngày 01/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận:

- Chất màu trắng trong 01 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu là ma túy, trọng lượng: 0,0139 gam (M1), loại heroin.

- Chất màu trắng trong 10 đoạn ống hút nhựa màu xanh nước biển sọc trắng hàn kín hai đầu là ma túy, trọng lượng: 0,1145 gam (M2-1), loại heroin.

- Chất màu trắng trong 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh lá cây hàn kín hai đầu là ma túy, trọng lượng: 0,0112 gam (M2-2), loại heroin.

- Chất màu trắng trong 01 đoạn ống hút nhựa màu cam hàn kín hai đầu là ma túy, trọng lượng: 0,1318 gam (M2-3), loại heroin.

- Mẫu tinh thể (M3) gửi đến giám định là ma túy, có trọng lượng 0,3253 gam (M3), loại Methamphetamine. Mẫu vật sau giám định được niêm phong, trọng lượng 0,0054 gam (M1); 0,1037 gam (M2-1); 0,0037 gam (M2-2), 0,1178 gam (M2-3), 02902 (M3).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên.

Vật chứng thu giữ :

- 0,0139 gam (M1), loại heroin; 0,1145 gam (M2-1), loại heroin; 0,0112 gam (M2-2), loại heroin, 0,1318 gam (M2-3), loại heroin.

- 0,3253 gam (M3), loại Methamphetamine.

- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm: 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh, sọc trắng, 01 đầu uốn cong, 01 bình thủy tinh; 01 ống thủy tinh nối ống hút nhựa, 01 bình ga hột quẹt, 01 lưỡi dao lam; 01 keo kim loại màu trắng, 01 ống kim tiêm đã qua sử dụng. Số tiền 100.000 đồng là do Nguyễn Thanh L và Lê Nguyễn Thành N bán ma túy mà có, 01 điện thoại di động hiệu Nokia RM-908, 01 điện thoại di động hiệu OPPO Neo 9.

Đối với xe mô tô hiệu Yamaha sirius màu trắng đen biển số 61C1-295.60 là của bà Lương Thị Thu H (mẹ của Hoàng Văn B), Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho bà H vào ngày 25-10-2017, bà H đã nhận lại xe và không có ý kiến gì.

Trích dẫn cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản Cáo trạng số 50/KSĐT ngày 20 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát N dân huyện Bàu Bàng truy tố bị cáo Lê Nguyễn Thành N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Nguyễn Thanh L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về mức hình phạt: áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều194; điểm p khoản 1 Điều 46 và điểm n khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 đối với Lê Nguyễn Thành N; áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 69 và Điều 74 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 đối với Nguyễn Thanh L. Và đề nghị xử phạt bị cáo Lê Nguyễn Thành N mức án từ 8 năm 6 tháng đến 9 năm tù; xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh L mức án từ 5 năm 6 tháng đến 6 năm tù.

+ Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,0139 gam (M1), loại heroin; 0,1145 gam (M2-1), loại heroin; 0,0112 gam (M2-2), loại heroin; 0,1318 gam (M2-3), loại heroin; 0,3253 gam (M3), loại Methamphetamine; 01 đoạn ống bình nhựa màu xanh, sọc trắng 01 đầu uốn cong, 01 bình thủy tinh; 01 ống thủy tinh nối ống hút nhựa, 01 bình ga hột quẹt,01 lưỡi dao lam; 01 kéo kim loại màu trắng, 01 ống kim tiêm đã qua sử dụng.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia RM-908 và 01 điện thoại di động hiệu OPPO Neo 9 vỏ màu trắng. Truy thu bị cáo Lê Nguyễn Thành N 1.000.000đ tiền thu lợi bất chính.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên ý kiến cũng như mức hình phạt đã đề nghị đối với bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: bị cáo N trình bày qua thời gian tạm giam, bị cáo đã được cán bộ nhà tạm giữ giáo dục, bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai trái, bị cáo xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm về với gia đình; Bị cáo L trình bày qua thời gian tạm giam, bị cáo đã được cán bộ nhà tạm giữ giáo dục, bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai trái, bị cáo xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bàu Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát N dân huyện Bàu Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và các quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo đã khai nhận: từ đầu tháng 8/2017 đến ngày 29-8-2016, Lê Nguyễn Thành N đến huyện C, thành phố Hồ Chí Minh mua ma tuý (ma túy đá) và heroin của đối tượng tên Tuấn (không rõ lai lịch), mỗi lần mua ma tuý dạng heroin và dạng đá với giá 500.000 – 1.000.000 đồng. Số ma tuý mua được, N mang về sử dụng và bán cho các đối tượng nghiện ma tuý như: Khúc Văn C 07 đến 08 lần, mỗi lần giá 100.000 đồng, Trịnh Sơn T 04 đến 05 lần, mỗi lần giá 100.000 đồng, đối tượng tên Cún (không rõ họ tên, địa chỉ) 04 đến 05 lần, mỗi lần giá 100.000 đồng.

Ngày 29-8-2016, bị cáo Nguyễn Thanh L giúp bị cáo Lê Nguyễn Thành N bán ma túy cho Khúc Văn C với giá 100.000 đồng. Ngoài ra cách ngày bị bắt quả tang 5-6 ngày, bị cáo Nguyễn Thanh L giúp bị cáo Lê Nguyễn Thành N bán ma túy cho Khúc Văn C với giá 100.000 đồng, trước khi đi bán ma túy cho bị cáo Lê Nguyễn Thành N, bị có N cho bị cáo ma túy (dạng ma túy đá) để sử dụng.

Từ những dẫn chứng, phân tích trên, xét thấy: hành vi trên của các bị cáo Lê Nguyễn Thành N và Nguyễn Thanh L đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đối Lê Nguyễn Thành N có một tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời điểm bị cáo gây án chưa được xóa án tích. Do vậy, Cáo trạng truy tố bị cáo Lê Nguyễn Thành N theo điểm b, p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và truy tố bị cáo Nguyễn Thanh L theo điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

 [3] Các bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra. Các bị cáo hoàn toàn nhận thức được ma túy là một loại độc chất nguy hiểm, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, là mầm mống làm lan truyền các căn bệnh truyền nhiễm khác, ma túy còn là một trong những tác N gây kích thích thực hiện tội phạm khác. Các bị cáo biết rõ rằng Nhà nước ta nghiêm cấm việc mua bán trái phép chất ma túy dưới mọi hình thức. Bất kỳ ai có hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị nhưng chỉ vì ham muốn của bản thân mà các bị cáo đã bất chấp pháp luật, để thực hiện hành vi vi phạm.

Bị cáo Lê Nguyễn Thành N có vai trò chính, bị cáo trực tiếp đi mua ma túy về phân nhỏ ra để sử dụng và bán. Bị cáo Nguyễn Thanh L có vai trò giúp sức cho bị cáo N, bị cáo L có hai lần mang ma túy đi bán giùm cho bị cáo N.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét cần xử phạt các bị cáo một mức án thật nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo, nhằm giáo dục, răn đe nhằm giúp cho các bị cáo trở thành người công dân tốt có ích và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

 [4] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau:

- Về tình tiết tăng nặng: bị cáo Lê Nguyễn Thành N xúi giục bị cáo Nguyễn Thanh L phạm tội, do thời điểm phạm tội bị cáo Nguyễn Thanh L chưa thành niên nên bị cáo Lê Nguyễn Thành N phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm n khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

- Về tình tiết giảm nhẹ: tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo tự khai nhận các hành vi phạm tội trước đó theo quy định tại điểm h, o khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Riêng đối với bị cáo Nguyễn Thanh L, vào thời điểm phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi, cho nên Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 69 và Điều 74 đối với bị cáo.

 [5] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời để răn đe và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

 [6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [7] Về xử lý vật chứng: hội đồng xét xử xét nên tịch thu tiêu hủy vật chứng sau khi giám định như sau: 0,0054 gam (M1), loại heroin. 0,1037 gam (M2-1), loại heroin; 0,0037 gam (M2-2), loại heroin; 0,1178 gam (M2-3), loại heroin. 0,2902 gam (M3), loại Methamphetamine. 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh, sọc trắng, 01 đầu uốn cong, 01 bình thủy tinh; 01 ống thủy tinh nối ống hút nhựa, 01 bình ga hột quẹt, 01 lưỡi dao lam; 01 keo kim loại màu trắng, 01 ống kim tiêm đã qua sử dụng. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia RM-908, 01 điện thoại di động hiệu OPPO Neo 9 vỏ màu trắng và truy thu bị cáo Lê Nguyễn Thành N 1.000.000đ tiền thu lợi bất chính theo quy định tại Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với xe mô tô hiệu Yamaha sirius màu trắng đen biển số 61C1-295.60 là của bà Lương Thị Thu H (mẹ của Hoàng Văn B), Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho bà H vào ngày 25-10-2017, bà H đã nhận lại xe và không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [8] Đối với hành vi của Khúc Văn C, Trịnh Sơn T sử dụng trái phép chất ma tuý nên ngày 25/10/2017 đã bị Công an huyện Bàu Bàng phạt hành chính mỗi đối tượng với số tiền 750.000 đồng.

Đối với hành vi mua ma túy đá về sử dụng là 0.3253 gam, do không đ ủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy nên ngày 25-10-2017 Công an huyện Bàu Bàng ra Quyết định xử phạt hành chính đối với N số tiền 1.500.000 đồng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với đối tượng tên T nêu trên (hiện không rõ lai lịch) Công an huyện Bàu Bàng tiếp tục xác minh làm rõ, có căn cứ sẽ xử lý sau.

 [9] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, p khoản 2 Điều 194; điểm o, p Điều 46; điểm n khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đối với bị cáo Lê Nguyễn Thành N.

Căn cứ điểm p khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1 Điều 46; Điều 69 và Điều 74 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đối với bị cáo Nguyễn Thanh L. Căn cứ Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự,

Tuyên bố các bị cáo Lê Nguyễn Thành N và bị cáo Nguyễn Thanh L phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Nguyễn Thành N 8 (tám) năm 6 sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29-8-2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh L 5 (năm) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29-8-2017.

Về xử lý vật chứng: hội đồng xét xử xét nên tịch thu tiêu hủy vật chứng sau khi giám định như sau: 0,0054 gam (M1), loại heroin. 0,1037 gam (M2-1), loại heroin; 0,0037 gam (M2-2), loại heroin; 0,1178 gam (M2-3), loại heroin. 0,2902 gam (M3), loại Methamphetamine. 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh, sọc trắng, 01 đầu uốn cong, 01 bình thủy tinh; 01 ống thủy tinh nối ống hút nhựa, 01 bình ga hột quẹt, 01 lưỡi dao lam; 01 keo kim loại màu trắng, 01 ống kim tiêm đã qua sử dụng (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21-11-2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng). Quản thủ số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng) Cơ quan điều tra Công an huyện Bàu Bàng đã nộp vào tài khoản số 39490.1119986.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương ngày 21-11-2017 để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia RM-908 và 01 điện thoại di động hiệu OPPO Neo 9 vỏ màu trắng (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21-11-2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương).

Buộc bị cáo Lê Nguyễn Thành N phải nộp sung quỹ Nhà nước số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng).

Về án phí: áp dụng Điều 98 và Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23, Mục 1, Phần I Danh mục Án phí, lệ phí Tòa án (ban hành kèm theo) của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: các bị cáo Lê Nguyễn Thành N và Nguyễn Thanh L mỗi bị cáo bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

347
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/HS-ST ngày 31/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về