Bản án 03/2018/HS-ST ngày 27/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 03/2018/HS-ST NGÀY 27/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 27 tháng 4 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2018/TLST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2018/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Hồ N. Sinh ngày 10 tháng 5 năm 1974.

Nơi cư trú: Số nhà 84, khu Tân Bình, thị trấn Xuân Mai, huyện Chương Mỹ, Hà Nội

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh;

Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Vợ: Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1985; Con: có 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2013.

Con ông Hồ C, sinh năm 1945 và bà Nguyễn Thị L sinh năm 1947. Gia đình có hai anh em, bị can là con cả trong gia đình.

Tiền sự: Không. Tiền án: 02 tiền án

- Ngày 20/8/2012 Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

- Ngày 11/12/2014 Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/01/2018 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình.

Bị cáo bị dẫn giải, có có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thi T, sinh năm 1989.( Có đơn xin xét xử vắng mặt)

Nơi cư trú: Phố Bãi Nai 2, xã Mông Hóa,huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1985.Có mặt.

Nơi cư trú: Số nhà 84, khu Tân Bình, thị trấn Xuân Mai, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Có mặt.

Chỗ ở: Thôn Năm Lu, xã Hòa Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 24/01/2018, Hồ N, sinh năm 1974 trú tại tổ 4, khu Tân Bình, thi trấn Xuân Mai, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội điều khiển xe mô tô BKS 29X1 – 13684 từ nhà lên thành phố Hòa Bình với mục đích mua ma túy về sử dụng. Khi đến địa phận xóm Lũng Hang, xã Mông Hóa, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình, N rẽ vào cửa hàng điện thoại di động cạnh QL 6A của chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1989, trú tại Bãi Nai 2, xã Mông Hóa, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình để mua thẻ điện thoại, không thấy có người trông coi cửa kính trưng bày điện thoại không khóa, liền nảy sinh ý định trộm cắp.N kéo cửa kính và trộm cắp bốn điện thoai di động có nhãn hiệu: VIVO Y53;OPPO F5;OPPO A37 và SASUNG GALASY J7 cho vào túi áo khoác đang mặc.Chị T đi từ trên gác xuống nhìn thấy và tri hô, N bỏ chạy ra ngoài mở khóa xe mô tô theo hướng Hà Nội – Hòa Bình tẩu thoát, khi đến khu vực đường đê thuộc thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình gặp một người đàn ông không quen biết và đặt vấn đề mua ma túy, N đổi hai chiếc điện thoại vừa trộm cắp được hiệu OPPO lấy ma túy về sử dụng. Còn hai chiếc điện thoại hiệu VIVO Y53 và SASUNG GALASY J7 Ninh mang về nhà cất giữ.Ngày 25/01/2018 N đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bốn chiếc điện thoại VIVO Y53;OPPO F5;OPPO A37 và SASUNG GALASY J7, N trộm cắp của chị T được trưng cầu định giá, tại bản kết luận của hội đồng định giá trong tố tụng huyện Kỳ Sơn ngày 29/01/2018 kết luận tổng giá trị bốn chiếc điện thoại là 15.390.000 đồng.

Cáo trạng số 03/CT – VKS - KS ngày 02/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn truy tố bị cáo Hồ N về tội “trộm cắp tài sản” theo điểm khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hồ N như trong nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử :

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173 ; điểm b, s khoản 1,khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015

Xử phạt bị cáo Hồ N từ 24 tháng đến 30 tháng tù giam.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị Đ( vợ bị cáo N) bồi thường 8.850.000 đồng cho chị Nguyễn Thị T – bồi thường hai chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO F5 và OPPO A37 mà bị cáo N đã dùng để đổi ma túy cho một người đàn ông thuộc khu vực đê thành phố Hòa Bình, hai chiếc điện thoại này Cơ quan điều tra không thu giữ được. Chị T đã nhận đủ tiền và nhận lại hai chiếc điện thoại VIVO 53 và SASUNG GALASY J7 không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự nên không đề cập. Chị Nguyễn Thị Đ trình bày số tiền 8.850.000 đồng chị bồi thường cho chị T là tiền chung của hai vợ chồng nên chị không có đề nghị gì, không yêu cầu bị cáo N phải trả lại tiền cho chị.

Về vật chứng vụ án: 01 chiếc điện thoại di động hiệu VIVO Y53 màu vàng và 01 chiếc điện thoại di động hiệu SASUNG GALASY J7 đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị T nên không đề cập.

-01 chiếc xe mô tô hiệu HONDA LEAD màu sơn vàng BKS 29 X1 – 136.84.

Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên của chị Nguyễn Thị Đ,chị Đ không biết việc N mượn xe để đi trộm cắp tài sản nên không có lỗi, Cơ quan điều tra Công an huyện Kỳ Sơn đã trả lại xe cho chị Đ nên không đề cập.

- Đối với hai chiếc điện thoại OPPO F5 và OPPO A37 do bị cáo Hồ N trao đổi ma túy với người đàn ông không quen biết nên Cơ quan điều tra Công an huyện Kỳ Sơn không thu giữ được.

Bị cáo có lời tự bào chữa: Viện kiểm sát truy tố bị cáo và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự và về vật chứng là chính xác là đúng người, đúng tội, bị cáo không có ý kiến gì, bị cáo chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Đ: Bị cáo Hồ N và chị là vợ chồng. Số tiền 8.850.000 đồng chị bồi thường cho bị hại - chị Nguyễn Thị T là tiền chung của hai vợ chồng nên chị không có yêu cầu gì đối với bi cáo Hồ N về trách nhiệm dân sự.

Hội đồng xét xử công bố lời khai trước cơ quan điều tra của bị hại vắng mặt tại phiên tòa.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận và trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về tố tụng: Tội phạm xẩy ra tại xóm Lũng Hang, xã Mông Hóa, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình, bi cáo bị try tố theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt là 07 năm, theo quy định tại Điều 268, 269 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 là thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Kỳ Sơn, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

Tại phiên tòa bị hại vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc theo quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

[2] Về tội danh, điều luật: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Hồ N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, như vậy đã có đủ căn cứ kết luận:

Ngày 24/01/2018 bị cáo Hồ N có hộ khẩu tại số nhà 84, khu Tân Bình, thị trấn Xuân Mai, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội đã có hành vi trộm cắp 04 chiếc điện thoại di động OPPO F5; OPPO A37; VIVO Y53 và SASUNG GALASY J7 trị giá 15.390.000 đồng tại cửa hàng điện thoại di động của chị Nguyễn Thị T ở xóm Lũng Hang,xã Mông Hóa, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình. Hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản, tội được quy định tại Điều 173 Bô luật hình sự năm 2015. Bị cáo đã có 02 tiền án chưa được xóa án tích, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, nên việc truy tố, xét xử bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là có cơ sở đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Không có

Về tính chất, mức độ phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ: Hành vi của bị cáo Hồ N là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn huyện Kỳ Sơn và gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có nhận thức và hiểu biết pháp luật. Xong do ý thức coi thường pháp luật, lười lao động nhưng lại muốn hưởng thụ thành quả lao động của người khác một cách trái pháp luật nên đã có hành vi trộm cắp tài sản. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình

Bị cáo Hồ N có nhân thân xấu, từ năm 2012 đến năm 2014 bị cáo đã có hai lần bị xử phạt về hành vi trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích, xong bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện tu dưỡng bản thân mà vẫn tiếp tục lao vào con đường phạm tội. Do vậy lần phạm tội này của bị cáo cần phải có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, cải tạo, giáo dục và góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm chung.

Tuy nhiên Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo trước Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại; ra đầu thú; bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo có cha mẹ là người có công với cách mạng, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Bị cáo hiện đang tạm giam cần tiếp tục giam giữ bị cáo để đảm bảo công tác thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Hồ N không có nghề nghiệp, không có thu nhập do vậy Hội đồng xét xử không phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thi T đã nhận đầy đủ tài sản bị cáo trộm cắp, nay chị T không có đề nghị gì thêm nên không đề cập.Số tiền 8.850.000 đồng chị Nguyễn Thị Đ ( vợ bị cáo N) bồi thường cho chị T, chị Đ không đề nghị bị cáo N trả lại số tiền này nên không đề cập.

[5]. Về vật chứng vụ án: 01 chiếc điện thoại di động hiệu VIVO Y53 màu vàng và 01 chiếc điện thoại di động hiệu SASUNG GALASY J7 đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị T.

- 01 chiếc xe mô tô hiệu HONDA LEAD màu sơn vàng BKS 29 X1 – 136.84, đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Đ.

- Đối với hai chiếc điện thoại OPPO F5 và OPPO A37 do bị cáo Hồ N dùng để trao đổi với ma túy với người đàn ông không quen biết nên Cơ quan điều tra Công an huyện Kỳ Sơn không thu giữ được.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hồ N phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015

Xử phạt bị cáo Hồ N 24 ( Hai bốn ) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 25/01/2018.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về thu nộp án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Hồ N phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/HS-ST ngày 27/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn (cũ) - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về