TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ BẢY, TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 03/2018/HSST NGÀY 22/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 22 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:03/2018/TLST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xửsố:03/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: Mã T. K, sinh năm 1988; Tên gọi khác: Không; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 961 đường Hùng Vương, KV, phường N.B, TX.B, tỉnh Hậu Giang; nơi ở hiện nay: Số nhà 841, Hùng Vương, kv, phường NB, NB, tỉnh Hậu Giang; trình độ văn hoá: 07/12; nghề nghiệp: Buôn bán; dân tộc: Hoa; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông M,S, sinh năm 1955 và bà Lê Thị Ngọc P, sinh năm 1960 (chết); tiền án: Không; tiền sự 01 lần: Ngày 16/3/2017 thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bị Công an phường Ngã Bảy xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng, chưa nộp phạt.
Bị bắt tạm giam ngày 22/11/2017 đến ngày 31/01/2018 cho gia đình bảo lãnh đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Nguyễn Đ, S, sinh năm 1992; nghề nghiệp kinh doanh nhà trọ. Trú tại: Khu vực 5, phường B, thị xã N, tỉnh Hậu Giang (vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ ngày 16/10/2017 bị hại Nguyễn Đ, S đến nhà của Nguyễn Đình D chơi và S gửi D sạc điện thoại di động hiệu Iphone 6 để trên bàn ở nhà trước, sau đó S đi chơi thể thao. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày bị cáo Mã T. K từ trong nhà của Nguyễn Đình D ra phía trước thì phát hiện điện thoại không ai trông coi nên bị cáo nảy sinh ý định trộm. Bị cáo K lấy điện thoại tắt nguồn giấu trong hộc bàn trong nhà của D. Đến 21 giờ cùng ngày bị cáo K lấy điện thoại đã trộm đón xe mô tô khách (của người đàn ông không rõ nhân thân lại lịch) đến dốc cầu Cái Răng, thành phố Cần Thơ thì gặp một người tên Hiếu (không rõ nhân thân) cầm điện thoại giá 300.000 đồng. Bị cáo mua ma túy 200.000 đồng sử dụng, còn lại 100.000 đồng trả tiền xe ôm. Đến ngày 17/10/2017 bị cáo K đến địa chỉ cầm điện thoại để chuộc lại nhưng không gặp Hiếu mà gặp một người (không rõ nhân thân) chuộc lại với giá350.000 đồng. Sau đó bị cáo K đem điện thoại nộp cho Cơ quan điều tra Công an thị xã Ngã Bảy.
Đối với tên Hiếu chưa tiếp xúc được nên Cơ quan điều tra tách hồ sơ tiếp tục điều tra xử lý sau.
Căn cứ kết luận định giá số: 75/HĐĐGTT-HS ngày 13/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thị xã Ngã Bảy kết luận: 01 điện thoại di động Iphone 6 giá trị còn lại tại thời điểm xảy ra vụ án là 70%, trị giá 6.300.000 đồng.
Cáo trạng số 05/QĐ – KSĐT ngày 11/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang quyết định truy tố bị cáo Mã T. K có lý lịch và hành vi phạm tội nêu trên ra trước Toà án nhân dân thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang để xét xử về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1, Điều 138 của Bộ luật hình sự 1999.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Mã T. K theo tội danh và điều luật như quyết định cáo trạng đã truy tố. Phân tích các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, Điều 138, điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Mã T. K từ 6 đến 9 tháng tù.
Về vật chứng: Ngày 30/11/2017 Cơ quan điều tra Công an thị xã Ngã Bảy đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả cho bị hại Nguyễn Đ, S 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu xám.
Bị cáo Mã T. K thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.
- Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà.
- Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và của những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Khoảng 17 giờ ngày 16/10/2017 bị cáo Mã T. K lén lút thực hiện hành vi trộm điện thoại di động hiệu Iphone 6 của Nguyễn Đ, S với giá trị 6.300.000 đồng. Qua lời nhận tội của bị cáo Mã T. K tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Do đó có cơ sở xác định hành vi của bị cáo Mã T. K phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự và Viện Kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng tội.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự trị an. Bị cáo nhận thức được việc lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng muốn có tiền tiêu xài bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Bị cáo có nhân thân xấu một tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản nhưng không sửa đổi lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Do đó đối với bị cáo cần phải áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, để bị cáo có thời gian lao động, học tập, cải tạo sau này trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự, với các tình tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; gia đình bị cáo đã xuất tiền chuộc điện thoại bồi thường cho người bị hại.
Xét mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Về vật chứng: Đã giải quyết xong nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về trách nhiệm dân sự bị hại không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Ví các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Mã T. K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 138, điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Mã T. K 6 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, được trừ vào thời gian tạm giam từ ngày 22/11/2017 đến ngày 31/01/2018.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Mã T. K phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại Nguyễn Đ, S được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản bản án được niêm yết tại ủy ban nhân dân phường Ngã Bảy nơi bị cáo cư trú.
Bản án 03/2018/HSST ngày 22/03/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 03/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Ngã Bảy - Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/03/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về