Bản án 03/2018/HS-ST ngày 16/01/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 03/2018/HS-ST NGÀY 16/01/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 01 năm 2018, tại Khu dân cư thuộc địa bàn Phường 15, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 109/2017/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2018, đối với bị cáo:

Lê Bảo N; sinh năm: 1992, tại An Giang; nơi cư trú: khóm L, phường LT, thị xã T, tỉnh A; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H và bà Nguyễn Thị P; tiền sự: không có; tiền án: không có; bị bắt, tạm giam ngày: 01/9/2017 Có mặt.

- Bị hại:

Chị Nguyễn Phương A, sinh năm: 1997;

Nơi cư trú: X đường Đ, Phường O, Quận Đ, Thành phố H; Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Võ Văn N, sinh năm: 1963;

Nơi cư trú: ấp L, phường LT, thị xã T, tỉnh A; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trưa ngày 01/9/2017, bị cáo điều khiển xe mô tô hai bánh biển số 67H1- XXX.YY chạy lòng vòng trên các tuyến đường tìm người có tài sản để chiếm đoạt. Đến khoảng 13 giờ 10 phút cùng ngày, khi thấy chị Nguyễn Phương A đang đứng ở lề đường đầu hẻm 68 Lữ Gia, Phường 15, Quận 11 và trên tay có cầm điện thoại di động nên điều khiển xe quay lại, chạy áp sát vào và dùng tay trái chiếm đoạt chiếc điện thoại di động của chị A, do chị A nắm chặt điện thoại nên bị cáo không chiếm đoạt được. Chị A tri hô lên, bị cáo liền tăng ga xe bỏ chạy ra đường Lý Thường Kiệt. Do đã theo dõi từ trước, nên ngay sau đó, các trinh sát thuộc Đội Hình sự đặc nhiệm Hướng Nam - Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã truy đổi theo và bắt được bị cáo, giải giao cho cơ quan công an.

Tài sản bị mà bị cáo đã chiếm đoạt của chị Nguyễn Phương A là một chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Duos G530, đã qua sử dụng; theo kết luận định giá, thì chiếc điện thoại này có giá trị là 700.000 đồng. Cơ quan điều tra Công an Quận 11 đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Lê Bảo N về hành vi chiếm đoạt tài sản. Tại cơ quan công an bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như trên.

Bản Cáo trạng số 105/CTr-VKS ngày 20 tháng 10 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 đã truy tố bị cáo Lê Bảo N tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Tại phiên tòa,

- Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội, giữ quan điểm như truy tố, nêu lên các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Về hướng xử lý vật chứng, đề nghị trả lại cho ông Võ Văn N 01 xe mô tô hai bánh Honda Wave α, biển số 67H1-XXX.YY. Về trách nhiệm dân sự, người bị hại - chị Nguyễn Phương A - đã được giao trả lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng nêu và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 13 giờ 10 phút ngày 01/9/2017, tại đầu hẻm số 68 đường Lữ Gia, Phường 15, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh - bị cáo đã có hành vi khiển xe máy áp sát vào chị Nguyễn Phương A (đang dùng điện thoại di động), dùng tay chiếm đoạt chiếc điện thoại di động trên tay của chị A, rồi nhanh chóng tăng ga xe tẩu thoát, nhưng do chị A nắm chặt điện thoại nên bị cáo chưa chiếm đoạt được. Tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt là một điện thoại di động hiệu Samsung Duos G530, đã qua sử dụng; theo Kết luận định giá tài sản số 113/KLĐGTS ngày 10/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, thì chiếc điện thoại này trị giá 700.000 đồng

Thủ đoạn công khai, bất ngờ giật lấy tài sản của người khác có giá trị như nêu trên, rồi nhanh chóng tẩu thoát mà bị cáo thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 136 của Bộ luật Hình sự. Mặt khác, thì hành vi dùng mô tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản là tình tiết “dùng thủ đoạn nguy hiểm”; do đó, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị cáo tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) là đúng quy định.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện nên có lỗi cố ý trực tiếp; vì vậy, bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là “phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn”, vì tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại; “thành khẩn khai báo”, “ăn năn hối cải”; bị cáo có nhân thân tốt, đây là lần đầu phạm tội. Những tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại các điểm g, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Đồng thời, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp “phạm tội chưa đạt” theo quy định tại Điều 18 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ trong vụ án và trách nhiệm dân sự:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Duos G530: là tài sản bị chiếm đoạt, đã được thu hồi trả lại cho người bị hại - chị Nguyễn Phương A, việc giao trả này là đúng. Đồng thời, chị A không có yêu cầu bồi thường thiệt hại gì, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- 01 xe mô tô hai bánh hiệu Wave α, biển số 67H1-XXX.YY: chiếc xe thuộc sở hữu của ông Võ Văn N, ông N giao cho con gái là chị Võ Thị Bảo L sử dụng; sau đó, chị L cho bị cáo mượn sử dụng. Xét thấy ông N không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, nên trả lại cho ông chiếc xe này.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 11, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 136; các điểm g, p khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 46; Điều 18 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009); Điều 106, khoản 3 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Lê Bảo N phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Bảo N 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/9/2017.

Trả lại cho ông Võ Văn N: 01 xe mô tô hai bánh hiệu Wave α, màu xanh nhớt, biển số 67H1-XXX.YY.

(Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 239/LNK ngày 02/10/2017 của Cơ quan điều tra Công an Quận 11).

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu là 200.000 đồng.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/HS-ST ngày 16/01/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:03/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về