Bản án 03/2018/HNGĐ-ST ngày 27/03/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG ANA, TỈNH  ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 03/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/03/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 27 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Ana, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 177/2017/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 02 năm 2018 và theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 177A/2018/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 3 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Dương Hồng P, sinh năm 1990. Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Văn Thị L, sinh năm 1990. Vắng mặt.

Cùng trú tại: Thôn H, xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/10/2017 và trong quá trình xét xử nguyên đơn anh Dương Hồng P trình bày:

Anh P kết hôn với chị Văn Thị L trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk vào ngày 22/12/2011. Quá trình chung sống, anh và chị L chung sống hạnh phúc đến năm 2015, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, về kinh tế vợ chồng không có sự thống nhất nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã. Anh và chị L đã sống ly thân từ tháng 5/2016 cho đến nay. Nhận thấy giữa anh và chị L không còn tình cảm, không còn thương yêu nhau, nên anh P yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Văn Thị L.

Về con chung: Anh P và chị L có 02 con chung là Dương Hồng P1, sinh ngày 03/10/2012 và Dương Hồng Thục Q, sinh ngày 11/11/2015, hiện cả hai cháu đều đang ở với chị L. Khi ly hôn, anh P đồng ý để chị Văn Thị L được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả hai con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh và chị L tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Anh P, chị L không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết;

Về nợ chung: Anh P, chị L không nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng anh chị nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn chị Văn Thị L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng chị L cố tình trốn tránh, không hợp tác làm việc nên không lấy lời khai được.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa cũng như việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ của những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, về thời hạn chuẩn bị xét xử, quyết định đưa vụ án ra xét xử, gửi thông báo thụ lý vụ án đúng theo quy định tại các Điều 35; 39; 48; 51; 68; 70; 71; 72; 96; 97; 195; 196; 203; 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình; bị đơn đã không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, bị đơn vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 56; 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:

+ Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Dương Hồng P, cho anh P được ly hôn với chị L.

+ Về con chung: Giao hai cháu Dương Hồng P1, sinh ngày 03/10/2012 và Dương Hồng Thục Q, sinh ngày 11/11/2015 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh P không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết

+ Về tài sản chung, nợ chung: Anh P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Về chi phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng: Anh Dương HồngP chịu chi phí thông báo.

+ Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 anh P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Anh Dương Hồng P có đơn khởi kiện xin ly hôn với chị Văn Thị L. Đây là quan hệ tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Bị đơn chị Văn Thị L hiện đang trú tại: Thôn H, xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk.

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho bị đơn chị Văn Thị L nhưng chị L không đến Tòa án làm việc nên Tòa án không tiến hành lấy lời khai, hòa giải được, vì vậy Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định pháp luật.

Tại phiên toà bị đơn chị Văn Thị L vắng mặt nhưng đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, do vậy Toà án vẫn tiến hành xét xử là đúng quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. [3] Về các yêu cầu của đương sự:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Dương Hồng P và chị Văn Thị L đăng ký kết hôn tại UBND xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk vào ngày 22/12/2011, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Anh P xác định nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, về kinh tế vợ chồng không có sự thống nhất nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã. Anh và chị L đã sống ly thân từ tháng 5/2016 cho đến nay.

Kết quả xác minh mâu thuẫn tại địa phương xác định: Quá trình chung sống, vợ chồng anh P và chị L đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm về kinh tế, không hòa hợp trong cuộc sống, từ đó làm cho vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, cãi vã. Mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị phát sinh từ khoảng năm 2015 cho đến nay. Anh P, chị L đã sống ly thân từ giữa năm 2016 cho đến nay.

Hội đồng xét xử xét thấy, thực tế mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa anh P và chị L có xảy ra, mâu thuẫn đã trầm trọng và kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn. Anh P và chị L đã sống ly thân từ tháng 5/2016 cho đến nay, anh P đã cương quyết xin ly hôn với chị L vì vậy nếu kéo dài quan hệ hôn nhân thì không đạt được mục đích của hôn nhân. Do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh P, giải quyết cho anh P được ly hôn với chị L là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Về con chung: Anh Dương Hồng P và chị Văn Thị L có 02 con chung là Dương Hồng P1, sinh ngày 03/10/2012 và Dương Hồng Thục Q, sinh ngày 11/11/2015, hiện cả hai cháu đang sống với chị L. Nhận thấy, hiện nay các cháu vẫn còn nhỏ, cần sự chăm sóc của người mẹ hơn, anh P cũng đồng ý để chị L được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung. Do đó cần tiếp tục giao các cháu Dương Hồng P1 và Dương Hồng Thục Q cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Dương Hồng P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập giải quyết.

- Về tài sản chung và công nợ chung: Anh Dương Hồng P xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Về chi phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng: Căn cứ Điều 180 Bộ luật Tố tụng Dân sự, anh Dương Hồng P chịu chi phí là 2.875.000đ. Được khấu trừ vào tiền tạm ứng chi phí thông báo đã nộp tại Tòa án là 2.875.000đ

[6] Về án phí: Anh Dương Hồng P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227, Điều 180, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Dương Hồng P.

1. Về hôn nhân: Anh Dương Hồng P được ly hôn với chị Văn Thị L.

2. Về nuôi con chung: Giao các cháu Dương Hồng P1, sinh ngày 03/10/2012 và Dương Hồng Thục Q, sinh ngày 11/11/2015 cho chị Văn Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Dương Hồng P không yêu cầu nên không giải quyết.Anh Dương Hồng P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và công nợ chung: Anh Dương Hồng P xác định không có nên không giải quyết.

4. Về chi phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng: Anh Dương Hồng P chịu chi phí là 2.875.000đ. Được khấu trừ vào tiền tạm ứng chi phí thông báo đã nộp là 2.875.000đ.

5. Về án phí: Anh Dương Hồng P phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) mà anh P đã nộp tại biên lai số 0004109 ngày 23/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/HNGĐ-ST ngày 27/03/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:03/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông A Na - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về