Bản án 03/2018/HNGĐ-ST ngày 05/02/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 03/2018/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 05 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 01/2018/TLST-HNGĐ ngày 15/01/2018 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2018/QĐST- HNGĐ ngày 18/01/2018, giữa các đương sự:

1.Nguyêđơn: Bà Nguyễn Thị Bích D; Địa chỉ: ấp C, xã B, huyện A, tỉnh Sóc Trăng. Chỗ ở hiện nay: ấp C1, xã B1, huyện A1, tỉnh Bến Tre. (có văn bản yêu cầu xét xử vắng mặt)

2. Bđơn: Ông Duong J; Địa chỉ: Hoa Kỳ. (có văn bản yêu cầu xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/01/2018, nguyên đơn bà D trình bày: Vào năm 2009, qua mạng internet bà quen biết ông J, đến năm 2010 ông J về Việt Nam và hai người gặp mặt nhau. Sau một thời gian tìm hiểu thì đến năm 2015 hai người tự nguyện tiến đến hôn nhân, được Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 16/10/2015.

Sau khi kết hôn, ông J ở lại Việt Nam 02 tuần rồi trở về Hoa Kỳ, trước khi đi ông J có hứa sẽ làm thủ tục bảo lãnh bà sang Hoa Kỳ để vợ chồng đoàn tụ. Tuy nhiên, cũng từ thời điểm đó giữa hai người bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, ông J nhiều lần kêu bà viết đơn ly hôn gửi qua Hoa Kỳ để ông J cưới vợ bên đó nhưng bà vẫn cố gắng nhẫn nhịn cho qua chuyện cho đến nay. Đến ngày 29/6/2017 bà đi phỏng vấn ở Đại sứ quán Hoa Kỳ nhưng không đạt do thiếu nhiều giấy tờ có liên quan, khi đó bà có gọi cho ông J biết để bổ sung hồsơ cho bà nhưng ông J nói thủ tục rắc rối quá nên không đồng ý làm và tiếp tục kêu bà viết đơn ly hôn gửi qua Hoa Kỳ cho ông J.

Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, quan hệ hôn nhân chỉ ràng buộc nhau về mặt pháp lý, nếu kéo dài cũng làm tổn thương nhau, không thể hàn gắn để cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc. Do đó, bà yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà yêu cầu được ly hôn với ông J.

- Về con chung, tài sản chung, nợ chung và trợ cấp khó khăn sau khi ly hôn: Không có, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện nay, do công việc của bà phải đi xa thường xuyên không có điều kiện sắp xếp thời gian để tham gia phiên tòa xét xử vụ án được nên bà yêu cầu Tòa án cho bà được vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án.

* Theo đơn yêu cầu giải quyết ly hôn và xét xử vắng mặt đề ngày 20/11/2017, bị đơn ông J trình bày: Về mối quan hệ hôn nhân, hoàn cảnh vợ chồngquen biết nhau, thời điểm và nơi đăng ký kết hôn, quá trình chung sống, nguyên nhân vợ chồng phát sinh mâu thuẫn… ông thống nhất theo lời trình bày của bà D như trên. Nay ông được biết là bà D yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà D được ly hôn với ông thì ông có ý kiến như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông đồng ý ly hôn với bà D.

- Về con chung, tài sản chung, nợ chung và trợ cấp khó khăn sau khi ly hôn: Không có, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện nay, do công việc của ông ở Hoa Kỳ rất bận rộn, không thể nghỉ làm để về Việt Nam tham gia tố tụng trong vụ án này được nên ông yêu cầu Tòa án cho ông được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[I] Về tố tụng:

[1] Theo đơn khởi kiện nguyên đơn D yêu cầu được ly hôn với bị đơn J; không có con chung; về tài sản chung, nợ chung và trợ cấp khó khăn sau khi ly hôn không yêu cầu giải quyết; Tòa án thụ lý vụ án xác định quan hệ pháp luật giải quyết “Ly hôn” là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; trong vụ án có đương sự ở nước ngoài nên Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 35 và Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Nguyên đơn D và bị đơn J đều có văn bản yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 và điểm a khoản 5 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, quyết định tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn D và bị đơn J.

[3] Ngày 15/01/2018 nguyên đơn D có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do đó, Tòa án không tiến hành hòa giải được vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[II] Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà D và ông J là những người có đủ điều kiện kết hôn, hai người đã tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày vào 16/10/2015, nên quan hệ hôn nhân giữa bà D và ông J là hôn nhân hợp pháp.

[2] Sau khi kết hôn với bà D, ông J chỉ ở lại Việt Nam được 02 tuần rồi trở về Hoa Kỳ sinh sống, trước khi đi ông J có hứa hẹn sẽ làm thủ tục bảo lãnh bà sang Hoa Kỳ để vợ chồng đoàn tụ. Tuy nhiên, sau đó ông J không thực hiện được thủ tục bảo lãnh bà D như lời đã hứa. Bà D và ông J đều xác nhận trong khoảng thời gian vợ chồng sống xa nhau thì giữa hai người bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn, do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống và hiện nay tình cảm vợ chồng giữa hai người đã không còn, không thể hàn gắn được nữa. Như vậy, cho thấy cuộc sống vợ chồng bà D và ông J không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng đã thật sự không còn, mâu thuẫn vợ chồng đến mức trầm trọng, tương lai không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không thể tồn tại, nếu duy trì hôn nhân sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của mỗi người. Theo bà D yêu cầu ly hôn với ông J thì ông J cũng đồng ý. Do vậy, yêu cầu khởi kiện của bà D xin được ly hôn với ông J là có cơ sở, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và đồng ý cho bà D được ly hôn với ông J.

[3] Về con chung: Bà D và ông J đều trình bày là không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung và trợ cấp khó khăn sau khi ly hôn: Bà D và ông J đều không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[4] Về án phí sơ thẩm: Bà D phải chịu án phí hôn nhân  sơ thẩm số tiền 300.000đồng theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, điểm b khoản 1 Điều 470, điểm a khoản Điều 477 và khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Áp dụng khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 123 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên x: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà D.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà D được ly hôn với ông J.

- Về con chung: Không có, nên không đặt ra xem xét.

- Về tài sản chung, nợ chung và trợ cấp khó khăn khi ly hôn: Hai bên không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

- Án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà D phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tiền số 0000491 ngày 12/01/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng; Như vậy, bà D đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

Báo các đương sự biết, án xử sơ thẩm công khai có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết) để xin Tòa án cấp trên xét xử lại theo trình tự phúc thẩm. Đối với đương sự cư trú ở nước ngoài không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án là 01 tháng, kể từ ngày bản án, quyết định được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án, quyết định được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2018/HNGĐ-ST ngày 05/02/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:03/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về