Bản án 03/2017/HSST ngày 25/10/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 03/2017/HSST NGÀY 25/10/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 10 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2017/HSST ngày 13 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn C, sinh năm 1987.

HKTT: Thôn ĐT, xã LC, huyện TY, tỉnh BG.

Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 08/12.

Con ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1961 và bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1967;

Gia đình có 3 anh chị, bị cáo là thứ 2; Vợ, con: Chưa; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/7/2017 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Anh Hoàng Văn C1, sinh năm 1992 (Vắng mặt). Trú tại Thôn 13, ĐL, xã XL, huyện LG, tỉnh BG.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1967 (Có mặt). Trú tại Thôn ĐT, xã LC, huyện TY, tỉnh BG.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 00 ngày 29/7/2017 Nguyễn Văn C là công nhân của công ty TenMa thuộc khu công nghiệp QV. Sau khi hết giờ làm C đi bộ về nhà trọ ở thôn GL, xã PL, huyện QV, tỉnh BN, khi đi qua dãy nhà trọ của anh Trần Đức T, C thấy cổng nhà trọ không đóng, bên trong có khoảng 2-3 chiếc xe máy, C nảy sinh ý định trộm một chiếc xe máy để làm phương tiện đi lại nên đã đi về phòng trọ lấy 01 tay công và vam phá khóa (theo C khai là do C tự chế và dùng để sửa xe máy). C quay lại dãy nhà trọ của anh T, dùng tay công và vam phá khóa mở ổ khóa điện chiếc xe máy BKS 98B2 - 339.91 của anh Hoàng Văn C1 sau khi mở được ổ khóa điện và dắt xe về phòng trọ của mình C đi làm đến 20 giờ cùng ngày thì hết ca làm, đến đoạn nhà anh T thấy mọi người bàn tán về việc mất chiếc xe máy của anh C1 và nhà trọ có camera quay lại được cảnh người lấy xe, do sợ hãi nên C đã về phòng trọ và dắt xe ra bãi đất trống trước dãy nhà trọ của anh T để. Khoảng 21 giờ cùng ngày anh T phát hiện chiếc xe trên và giao nộp cho cơ quan Công an huyện QV chiếc xe máy Wave Anpha màu trắng - đen - bạc BKS 98-339.91.

Sau khi phát hiện mất xe ngày 29/7/2017 anh C1 đã làm đơn trình báo về việc bị mất trộm tài sản.

Đến ngày 31/7/2017, nhận thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật nên C đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện QV đầu thú khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của mình và giao nộp 01 tay công hình chữ “T” thanh, 02 vam phá khóa.

Tại bản kết luận giám định số 77/KL ngày 01/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện QV kết luận: “Chiếc xe Honda Wave Anpha màu trắng - đen - bạc đã qua sử dụng được mua mới tháng 5 năm 2015 tại thời điểm mất chiếc xe cùng loại có giá 16.500.000 đồng theo quy định khấu hao tài sản chiếc xe tang vật hiện tại còn 78,33% nên chiếc xe trên có trị giá 12.924.450 đồng”.

Ngày 10/8/2017, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện QV đã trả lại chiếc xe trên cho anh Hoàng Văn C1, anh C1 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm về trách nhiệm dân sự Tại Cơ quan cảnh sát điều tra, Nguyễn Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu ở trên và trộm cắp 02 vụ nữa cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng tháng 2/2017 C khai nhận có lấy 01 xe Wave màu đen không nhớ BKS thuộc dãy nhà trọ của bà Nguyễn Thị M ở thôn GL, xã PL, huyện QV, tỉnh BN để bán cho 01 người thanh niên không quen biết được 3.000.000 đồng, số tiền này C tiêu sài cá nhân hết. Cơ quan CSĐT Công an huyện QV đã làm việc với bà M nhưng là chủ dãy trọ mà C khai trước đó đã trộm cắp nhưng bà M xác nhận từ trước đến nay chưa thấy ai báo với bà về việc mất xe thuộc dãy nhà trọ do bà quản lý.

Ngày 04/8/2017 bà Nguyễn Thị A (là mẹ đẻ của C) đã tự nguyện giao nộp 3.000.000 đồng để khắc phục hậu quả nay bà A không yêu cầu C phải hoàn trả số tiền trên.

Vụ thứ hai: C khai nhận tháng 05/2017 C đến khu vực cánh đồng thuộc thôn GL, xã PL, huyện QV, tỉnh BN thì C thấy 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream (C không nhớ BKS) để ở sườn đường, thấy xung quanh không có ai nên C đã dùng vam phá khóa mở ổ điện rồi đi về phòng trọ, sáng hôm sau Công đã đi ra TP. Hà Nội để bán. Trên đường đi tìm nơi tiêu thụ thì bị Công an TP.Hà Nội kiểm tra, C sợ bị phát hiện nên đã bỏ lại xe rồi bắt ô tô khách về nhà trọ tại GL, xã PL, huyện QV, tỉnh BN.

Ngày 14/9/2017 Cơ quan CSĐT Công an huyện QV có công văn trao đổi với Công an TP.Hà Nội để làm rõ sự việc, đến nay Cơ quan CSĐT Công an huyện QV chưa nhận được thông tin phản hồi của Công an TP.Hà Nội.

Cùng ngày, cơ quan CSĐT Công an huyện QV có thông báo truy tìm người bị hại trong 02 vụ trộm cắp tài sản trên nhưng chưa xác minh được bị hại nên tách ra, tiếp tục điều tra, xác minh khi nào làm rõ xử lý sau.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 175/Ctr-VKS ngày 13/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố Nguyễn Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ Luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã nêu và thừa nhận Bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Ngoài ra C còn khai nhận còn thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản khác nữa trên địa bàn thôn GL, xã PL, huyện QV, tỉnh BN.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị A trình bày: Bà đã nghe rõ lời khai của bị cáo Nguyễn Văn C, các lời khai trên là hoàn toàn đúng. Hành vi phạm tội của C là sai trái pháp luật, tại phiên tòa hôm nay bà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo C để sớm trở về xã hội làm lại cuộc đời. Đối với số tiền 3.000.000đ bà nộp để khắc phục hậu quả trong vụ án khác, nay bà đề nghị trả lại số tiền trên theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ giữ quyền công tố tại phiên toà sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h,p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự xử phạt: Nguyễn Văn C từ 08 đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 31/7/2017. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét giải quyết do người bị hại đã nhận được tài sản, không có yêu cầu bị cáo C phải bồi thường gì thêm.

Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 tay công hình chữ T, đã qua sử dụng;

02 vam phá khóa.

Trả lại cho bà Nguyễn Thị A số tiền 3.000.000đ đã bồi thường khắc phục hậu quả cho C trong vụ án khác.

Bị cáo Nguyễn Văn C nhận tội và bà Nguyễn Thị A không có ý kiến gì với phần kết luận và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà hôm nay, Hội đồng xét xử công bố lời khai của người bị hại anh Hoàng Văn C1 có đơn xin xử vắng mặt, đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không có yêu cầu bị cáo C phải bồi thường gì thêm.

Căn cứ vào chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Quế Võ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa hôm nay, lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn C là phù hợp với thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm; biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản về việc người phạm tội ra đầu thú cũng như lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xác định được: Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 29/7/2017, tại thôn GL, xã PL, huyện QV, tỉnh BN, lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác; Nguyễn Văn C đã có hành vi lén lút trộm cắp chiếc xe máy Wave Anpha màu trắng - đen - bạc BKS 98-339.91 của anh Hoàng Văn C1 với tổng giá trị tài sản là 12.924.450 đồng. Sau khi trộm cắp được tài sản C đã mang chiếc xe trên về phòng trọ của mình cất giấu, đến ngày 31/7/2017 nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, C đã đến cơ quan công an đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, giao nộp vật chứng của vụ án.

Thấy đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội "Trộm cắp tài sản", tội được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự đúng như Viện kiểm sát huyện Quế Võ đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo chẳng những gây thiệt hại về vật chất cho người bị hại mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý vì mục đích ích kỷ của bản thân. Do vậy, cần phải có một mức mức hình phạt nghiêm khắc phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo xuất thân từ gia đình con em lao động, được gia đình nuôi cho ăn học hết lớp 08/12, bản thân bị cáo tuổi đời còn trẻ, tương lai còn dài nhưng bị cáo lại không chịu tham gia lao động sản xuất để nuôi sống bản thân và giúp đỡ gia đình. Bị cáo hoàn toàn ý thức được tài sản mà bị cáo trộm cắp là tài sản của người khác anh Hoàng Văn C1 nhưng vì muốn có phương tiện đi lại phục vụ mục đích ích kỷ của bản thân nên vào sáng ngày 29/7/2017 bị cáo đã lén lút trộm cắp chiếc xe máy Wave Anpha màu trắng - đen - bạc BKS 98-339.91 của anh Hoàng Văn C1 với tổng giá trị tài sản là 12.924.450 đồng. Mặt khác tại cơ quan điều tra bị cáo còn khai nhận 02 lần trộm cắp tài sản trên địa bàn xã PL, huyện QV, tỉnh BN điều này chứng tỏ bị cáo là người khó giáo dục, cải tạo coi thường pháp luật. Xét thấy cần phải có một mức hình phạt nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội. Tuy nhiên tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã ra đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và tự thú 02 hành vi trộm cắp khác nên cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p,h,o khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam được trừ đi thời gian chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Đối với chiếc xe máy Wave Anpha màu trắng - đen - bạc BKS 98-339.91 bị Nguyễn Văn C trộm cắp đã trả lại cho anh C1. Anh C1 đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về vật chứng vụ án: Đối với 01 tay công hình chữ “T” và 02 vam phá khóa đã qua sử dụng, đây là công cụ dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 3.000.000đ, bà Nguyễn Thị A (mẹ đẻ của C) đã nộp để bồi thường khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của C gây ra trong một vụ án khác chưa xác định được người bị hại không liên quan đến vụ án này, tại phiên tòa hôm nay bà A cũng đề nghị Hội đồng xét xử trả lại số tiền trên, xét thấy yêu cầu của bà A là chính đáng phù hợp quy định của pháp luật nên cần trả lại cho bà A sở hữu và sử dụng số tiền 3.000.000đ trên.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h,p,o khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự; Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự, xử phạt:

Nguyễn Văn C 08 (Tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 31/7/2017. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 41; Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 tay công hình chữ “T” và 02 vam phá khóa đã qua sử dụng.Trả lại cho bà Nguyễn Thị A số tiền 3.000.000đ.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/10/2017 giữa Công an huyện QV với Chi cục Thi hành án dân sự huyện QV).

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2017/HSST ngày 25/10/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về