Bản án 02A/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU - TP ĐÀ NẴNG

 BẢN ÁN 02A/2021/HS-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 106/2020/TLST - HS ngày 17 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2020/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê N (Tên gọi khác: Không có), sinh ngày: 22/11/1993 tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi ĐKNKTT: Xã Xuân Lộc, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê T (SN: 1962) và bà Hồ Thị H (SN:

1964); Gia đình có 08 chị em, bị cáo là con thứ tư; Vợ Phan Thị Kiều N (SN: 1995 và 01 con Lê Phạm Hải D (SN 2018); Tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 28/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng.

Bị hại:

- Hoàng Thị Thu T, sinh năm 1990. Trú tại: Khối 6, phường An Mỹ, TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bà Trần Đặng Hạnh D, sinh năm 1989. Trú tại: Khối 6, phường An Mỹ, TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Q, sinh năm 1985. Trú tại: thôn Xuân Sơn, xã Lộc Sơn, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào chiều ngày 25/7/2020, chị Hoàng Thị Thu T và chị Trần Đặng Hạnh D đi cắm trại cùng nhóm bạn tại lán trại Hải Vân Viên tại tuyến đường đèo Hải Vân, thuộc P. Hòa Hiệp Bắc, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. Khoảng 01h ngày 26/7/2020, Lê N đi một mình bằng xe môtô hiệu Yamaha Sirius BKS: 75K1-317.32 trên tuyến đèo Hải Vân với ý định đi tìm nhà nào sơ hở thì đột nhập trộm cắp tài sản. Khi đi ngang qua, nhìn thấy căn nhà nơi chị T, chị D đang ở có đóng cửa nhưng không khóa chốt nên N nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. N lén lút vào căn nhà trộm 01 túi xách nữ màu đen của chị T bên trong có giấy tờ tùy thân của chị T và số tiền mặt là 26.000.000đồng, trộm 02 điện thoại di động đều hiệu Iphone 8 plus, màu vàng (trong đó 01 điện thoại của chị T, 01 điện thoại của chị D). Sau khi mang túi xách trộm được ra bên ngoài, N chỉ lục lấy được số tiền là 24.000.000đồng. Do N lục soát không kỹ nên còn sót lại số tiền là 2.000.000đồng và giấy tờ trong túi xách vừa trộm được. Một lúc sau, N chủ động đến lại khu vực lán trại Hải Vân Viên cố ý vứt túi xách nêu trên vào khu vực lán trại Hải Vân Viên cho người trong khu vực lán trại nhìn thấy để nhặt lại rồi N tẩu thoát. Ngay sau khi N vứt túi xách vào khu vực lán trại Hải Vân Viên, chị T nhìn thấy ra nhặt lại, kiểm tra trong túi xách, chị T xác định còn số tiền 2.000.000đồng và toàn bộ giấy tờ tùy thân của chị T. Sau khi chiếm đoạt tài sản, vào sáng ngày 26/7/2020, N mang 02 điện thoại Iphone 8 plus, màu vàng đến tiệm mua bán điện thoại Quốc Cường (địa chỉ: Thôn Xuân Sơn, xã Lộc Sơn, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế) gặp chị Nguyễn Thị Q (SN: 1985; Trú tại: Thôn Xuân Sơn, xã Lộc Sơn, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế), là chủ tiệm bán với giá 4.000.000đồng. Sau khi có tiền từ việc trộm cắp và bán tài sản trộm cắp, N đã tiêu xài cá nhân và đánh bạc xóc đĩa tại khu rừng Bạch Mã, xã Lộc trì huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế thua hết chỉ còn giữ lại trong người số tiền là 1.000.000 đồng. Quá trình điều tra, N khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Theo Kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Liên Chiểu số 64/KL-HĐĐG ngày 30/7/2020 kết luận:

Giá trị sử dụng còn lại của 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu vàng có số imei: 359500083530770 là: 7.200.000 đồng và Giá trị sử dụng còn lại của 01 điện thoại di nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu vàng có số imei: 356774084212281 là: 6.000.000 đồng. Tổng giá trị của 02 tài sản bị xâm hại nêu trên là 13.200.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản mà Lê N chiếm đoạt là 37.200.000đồng. Vật chứng thu giữ:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen BKS: 75K1 - 317.32;

- 01 điện thoại di động hiệu Apple - Iphone 8 Plus màu vàng có số imei: 359500083530770;

- 01 điện thoại di động hiệu Apple - Iphone 8 Plus màu vàng có số imei: 356774084212281;

- Tiền Việt Nam 1.000.000 đồng;

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô BKS 75K1-317.32 mang tên Lê N.

Về dân sự: Đại diện gia đình bị cáo Lê N đã bồi thường cho chị Hoàng Thị Thu T số tiền 24.000.000đồng, bồi thường cho chị Nguyễn Thị Quyên số tiền 4.000.000đồng. Chị T, chị Q không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản cáo trạng số: 110/CT-VKS ngày 16.11.2020 bị cáo Lê N bị Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và căn cứ vào tính chất, mức độ, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê N từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị về xử lý vật chứng như đã đề cập tại bản cáo trạng.

Bị cáo Lê N có nhân thân tốt, trong quá trình điều tra bị can đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường khắc phục hậu quả cho người bị hại và người liên quan, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 01 giờ 00’ ngày 26/7/2020 tại lán trại khu Hải Vân Viên trên tuyến đường Đèo Hải Vân thuộc phường Hòa Hiệp Bắc, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng, Lê N đã lén lút đột nhập vào lán trại lấy trộm của chị Hoàng Thị Thu T số tiền 24.000.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Apple - Iphone 8 Plus màu vàng, trộm của chị Trần Đặng Hạnh D 01 điện thoại di động hiệu Apple - Iphone 8 Plus màu vàng. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là: 37.200.000 đồng. Hành vi nêu trên của các bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như bản cáo trạng số 110/KSĐT, ngày 16/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, bị cáo lợi dụng sơ hở của bị hại, chị Trần Đặng Hạnh D và chị Trần Thị Thu T đang cắm trại tại thuộc khu vực Đèo Hải Vân thuộc phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Khi tài sản không có người trông giữ, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại. Bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản một mình với lỗi cố ý trực tiếp. Nên bị cáo phải chịu toàn bộ trách nhiệm do hành vi của bị cáo gây ra. Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự và gây tâm lý bất an cho người dân địa phương, điều đó chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật. Vì vậy HĐXX, cần phải áp dụng một hình phạt thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng nghừa chung cho xã hội.

[3] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo: Tuy nhiên xét thấy, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; người bị hại có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo đã bồi thường khắc phục toàn bộ hậu quả cho bị hại và bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét, giảm nhự một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[5] Xử lý vật chứng:

Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen BKS: 75K1 - 317.32 cùng với giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô BKS 75K1-317.32 mang tên Lê N, quá trình điều tra xác định xe này là tài sản riêng của Lê N. Vào ngày 26.7.2020, N đã sử dụng chiếc xe mô tô này để đi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Xét thấy đây là phương tiện N dùng để đi thực hiện hành vi phạm tội nên HĐXX tịch thu xung công.

Số tiền 1.000.000đồng đã tạm giữ của Lê N, đây là số tiền N tiêu xài còn lại từ số tiền trộm cắp mà có được, xét thấy đại diện gia đình N cũng đã bồi thường khắc phục hậu quả xong cho người bị hại, người liên quan, nên HĐXX quy trữ số tiền này để đảm bảo thi hành án.

Ngày 19/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiểu ra Quyết định xử lý vật chứng số 60/CSĐT, trả lại cho chị Trần Đặng Hạnh D 01 điện thoại di động hiệu Apple - Iphone 8 Plus màu vàng có số imei: 359500083530770; Trả lại cho chị Hoàng Thị Thu T 01 điện thoại di động hiệu Apple - Iphone 8 Plus màu vàng có số imei: 356774084212281 là có căn cứ, nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo Lê N phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong vụ án có chị Nguyễn Thị Quyên, người đã mua 02 điện thoại di động mà bị cáo Lê N trộm cắp được mang đến bán, tại thời điểm mua chị Quyên không biết được đó là các tài sản do N phạm pháp mà có. Nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu không xử lý đối với chị Quyên là có cơ sở, nên HĐXX không đề cập giải quyết.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm b ,i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê N 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28.7.2020. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu sung công quỹ nhà nước xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen BKS: 75K1 - 317.32 cùng với giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô BKS 75K1- 317.32 mang tên Lê N.

Quy trữ số tiền 1.000.000 đồng đã tạm giữ của Lê N để đảm bảo thi hành án.

(Hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/12/2020).

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Lê N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Riêng bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) trích sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02A/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02A/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về