Bản án 02/2021/KDTM-ST ngày 31/03/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

 BẢN ÁN 02/2021/KDTM-ST NGÀY 31/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 31 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Riềng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 02/2021/TLST - KDTM, ngày 01 tháng 2 năm 2021 về tranh chấp “Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:02/2021/QĐXXST- KDTM, ngày 08 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần B; địa chỉ: Tòa nhà HM Town, số N, đường A, phường 2, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Quang T – Chức vụ: Tổng giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hữu Đc – Giám đốc chi nhánh A (theo văn bản ủy quyền số 77/UQ-XLN ngày 28/4/2017)

Người được ủy quyền lại: Ông Huỳnh Minh Ph - Chức vụ: Phó Giám đốc chi nhánh A (theo văn bản ủy quyền số 03/UQ-VCCBCT ngày 10/5/2017 (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Mai Văn S, sinh năm: 1965; bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm:1964; địa chỉ: ấp Vinh A, xã Ngọc B, huyện G, tỉnh K (vắng mặt).

Đại diện hộ kinh doanh: Ông Mai Văn S, sinh năm: 1965; theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 56G80001589, ngày 10/10/2017 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 24/2/2020 và tại phiên tòa Ngân hàng TMCP B trình bày: Vào ngày 11/01/2018 Ngân hàng B – Chi nhánh A ký kết với bà Nguyễn Thị Nh, ông Mai Văn S hợp đồng tín dụng từng lần số 01/0015/00618/TDTL - CN cho vay số tiền 100.000.000 đồng theo giấy nhận nợ số 01/0015/00618/TDTL – CN; mục đích vay sản xuất kinh doanh. Lãi suất 03 tháng đầu kể từ ngày giải ngân 11,1%/năm. Lãi suất từ tháng thứ 4 trở đi kể từ ngày giải ngân bằng lãi suất gửi tiết kiệm VNĐ, kỳ hạn 13 tháng, lãnh lãi cuối kỳ tại thời điểm điều chỉnh + biên độ tối thiểu 4%/năm. Đồng thời, mức lãi suất này điều chỉnh 03 tháng/lần. Thời hạn vay 84 tháng, lãi trả hàng tháng vào ngày 25, gốc trả 03 tháng/lần.

Quá trình vay ông S, bà Nh trả được vốn gốc 21.480.000 đồng, tiền lãi 18.183.382 đồng. Như vậy, tính đến ngày 31/3/2021 ông S, bà Nh thiếu nợ của Ngân hàng số tiền gốc 78.520.000 đồng, tiền lãi trong hạn 12.676.569 đồng, lãi quá hạn 3.215.880 đồng. Tổng cộng 94.412.449 đồng.

Khi vay ông S, bà Nh thế chấp các tài sản sau cho Ngân hàng gồm: Thửa đất số 176 có diện tích 3.838 m2; thửa 186 có diện tích 4.000 m2; thửa 109 có diện tích 6.155 m2, đất tọa lạc tại ấp Ngọc A, xã Ngọc C, huyện G, tỉnh K nay là ấp Vinh A, xã Ngọc B, huyện G, tỉnh K do ông Mai Văn S đứng tên quyền sử dụng.

Nay Ngân hàng B yêu cầu bà Nguyễn Thị Nh, ông Mai Văn S phải trả số tiền gốc và lãi tính đến ngày 31/3/2021 là: 94.412.449 đồng và trả tiền lãi phát sinh kể từ ngày tiếp theo cho đến khi trả dứt nợ. Trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì yêu cầu tài sản bảo đảm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý để thu hồi nợ.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Quá trình thụ lý vụ án, chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, Tòa án tiến hành đúng theo quy định của pháp luật, xác định đúng quan hệ tranh chấp, đương sự trong vụ án và tiến hành các thủ tục tố tụng đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Các đương sự cũng chấp hành tốt các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Thời hạn đưa ra xét xử đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của đương sự tại phiên tòa hôm nay đối chiếu với các quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Riềng nhận thấy: Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng với ông S, bà Nh được ký kết trên cơ sở thỏa thuận nhưng đến hạn ông S, bà Nh không thanh toán cho Ngân hàng là vi phạm nghĩa vụ thanh toán đối với Ngân hàng nên Ngân hàng khởi kiện là hoàn toàn có căn cứ. Buộc ông S, bà Nh trả số tiền gốc và lãi còn thiếu 94.412.449 đồng và lãi phát sinh theo quy định của pháp luật. Nếu không trả được thì Ngân hàng có quyền đề nghị Chi cục thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Về án phí buộc bị đơn phải chịu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền và tố tụng:

1.1. Về thẩm quyền:

Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) B đã nộp đơn cùng các tài liệu, chứng cứ theo quy định. Tranh chấp của vụ án được xác định là tranh chấp Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) B với bị đơn bà Nguyễn Thị Nh – ông Mai Văn S, bị đơn có nơi cư trú ấp Vinh A, xã Ngọc B, huyện G, tỉnh K. Bị đơn vay tiền để kinh doanh (có giấy phép đăng ký kinh doanh) và các bên đều có mục đích lợi nhuận. Căn cứ vào Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án được xác định là án “Kinh doanh thương mại” thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

1.2. Về sự có mặt của đương sự: Ông Mai Văn S, bà Nguyễn Thị Nh đã được Tòa án tống đạt các thủ tục tố tụng nhưng ông S, bà Nh vẫn vắng mặt không có lý do, việc vắng mặt của ông - bà không làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên áp dụng điểm b khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xử vắng mặt.

[2] Về nội dung:

{2.1} Xét hợp đồng tín dụng: Vào ngày 11/01/2018 Ngân hàng TMCP B ký kết với bà Nguyễn Thị Nh, ông Mai Văn S hợp đồng tín dụng từng lần số 01/0015/00618/TDTL - CN với nội dung cho ông S, bà Nh vay số tiền 100.000.000 đồng, mục đích vay sản xuất kinh doanh. Ngân hàng đã giải ngân cho ông S - bà Nh số tiền 100.000.000 đồng, có giấy nhận nợ. Quá trình thực hiện hợp đồng ông S, bà Nh trả được vốn gốc 21.480.000 đồng, tiền lãi 18.183.382 đồng.

{2.2} Về lãi suất: Theo hợp đồng tín dụng các bên thỏa thuận về lãi suất 03 tháng đầu kể từ ngày giải ngân 11,1%/năm. Lãi suất từ tháng thứ 4 trở đi kể từ ngày giải ngân bằng lãi suất gửi tiết kiệm VNĐ, kỳ hạn 13 tháng, lãnh lãi cuối kỳ tại thời điểm điều chỉnh + biên độ tối thiểu 4%/năm. Xét yêu cầu về khoản nợ gốc, khoản nợ lãi trong hạn và lãi quá hạn tính đến ngày xét xử 31/3/2021 số tiền gốc ông Sị - bà Nh còn thiếu của Ngân hàng: 78.520.000 đồng, tiền lãi trong hạn 12.676.569 đồng, lãi quá hạn 3.215.880 đồng. Tổng cộng 94.412.449 đồng (có bản kê) là có căn cứ phù hợp với quy định pháp luật và Ngân hàng Nhà nước quy định về lãi suất.

Theo như hợp đồng đã ký kết thì thời hạn vay của hợp đồng từ ngày 11/01/2018 đến ngày trả nợ 13/01/2025. Về thời hạn của hợp đồng vay chưa kết thúc nhưng ông S, bà Nh không thanh toán theo từng kỳ trả nợ trong hợp đồng đã ký kết, mặc dù đã được Ngân hàng đôn đốc, nhắc nhở bằng văn bản nhưng vẫn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ đã cam kết. Do đó, Ngân hàng B khởi kiện đối với ông S, bà Nh là có cơ sở chấp nhận.

2.3} Xét hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất:

Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 0557/00615/01A.HĐTCQSDĐ, ngày 28/12/2015 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thạnh Đình, số 1 tỉnh Kiên Giang, số 2 đường Nguyễn Công Trứ, phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang vào ngày 28/12/2015; đảm bảo về hình thức theo quy định tại Điều 317 của Bộ luật Dân sự 2015.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với diện tích đất thuộc thửa đất số 176 có diện tích 3.838 m2; thửa 186 có diện tích 4.000 m2; thửa 109 có diện tích 6.155 m2, đất tọa lạc tại ấp Vinh A, xã Ngọc B, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang đã thế chấp thuộc quyền sử dụng của ông Mai Văn S, bà Nguyễn Thị Nh; Ông S, bà Nh đều thống nhất thế chấp để vay vốn tại Ngân hàng B là phù hợp với quy định tại Điều 325 của Bộ luật Dân sự 2015. Do đó, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa Ngân hàng TMCP B và ông S, bà Nh là hợp pháp nên làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên thế chấp.

Ngân hàng TMCP B khởi kiện yêu cầu xử lý tài sản thế chấp khi ông S, bà Nh không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ là phù hợp với quy định tại Điều 299 của Bộ luật Dân sự 2015.

[3] Từ những nhận định trên và xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận. Buộc ông ông Mai Văn S và bà Nguyễn Thị Nh phải trả cho Ngân hàng TMCP B số tiền gốc và lãi tính đến ngày 31/3/2021 là: 94.412.449 đồng (trong đó: tiền gốc 78.520.000 đồng, tiền lãi trong hạn 12.676.569 đồng, lãi quá hạn 3.215.880 đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông S, bà Nh còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này (Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay).

Trường hợp ông S, bà Nh không thực hiện việc trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền đề nghị Cơ quan thi hành án dân sự có quyền xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo thu hồi nợ cho Ngân hàng theo quy định của pháp luật.

[4] Về án phí:

Áp dụng khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Yêu cầu của Ngân hàng B được Tòa án chấp nhận nên Ngân hàng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp cho Ngân hàng (đã được xử lý xong tại bản án số 36/2021/DS-ST, ngày 31/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng).

Ông Mai Văn S, bà Nguyễn Thị Nh phải chịu án phí giá ngạch là: 94.412.449 đồng x 5% = 4.720.622 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 317, 325, Điều 463, Điều 466 của Bộ luật Dân sự 2015; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP B đối với ông Mai Văn S, bà Nguyễn Thị Nh.

2. Buộc ông Mai Văn S, bà Nguyễn Thị Nh phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP B số tiền gốc và lãi tính đến ngày 31/3/2021 là: 94.412.449 đồng (chín mươi bốn triệu bốn trăm mười hai nghìn bốn trăm bốn mươi chín) đồng (trong đó tiền gốc 78.520.000 đồng, tiền lãi trong hạn 12.676.569 đồng, lãi quá hạn 3.215.880 đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông Mai Văn S, bà Nguyễn Thị Nh còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này (Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay).

Ngân hàng thương mại cổ phần B có trách nhiệm giao trả cho ông S, bà Nh toàn bộ giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất, thửa số 176 có diện tích 3.838 m2; thửa 186 có diện tích 4.000 m2; thửa 109 có diện tích 6.155 m2, đất tọa lạc tại ấp Ngọc A, xã Ngọc C, huyện G, tỉnh K nay là ấp Vinh A, xã Ngọc B, huyện G, tỉnh K, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Mai Văn S đứng tên quyền sử dụng, sau khi ông bà đã tất toán xong khoản nợ trên cho Ngân hàng.

3. Trường hợp ông Mai Văn S, bà Nguyễn Thị Nh không thực hiện nghĩa vụ trả các khoản tiền nêu trên cho Ngân hàng thì Ngân hàng TMCP B có quyền đề nghị Cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo thu hồi toàn bộ khoản nợ, cụ thể tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất số D0834706 gồm: thửa đất số 176 có diện tích 3.838 m2; thửa 186 có diện tích 4.000 m2; thửa 109 có diện tích 6.155 m2, đất tọa lạc tại ấp Ngọc A, xã Ngọc C, huyện G, tỉnh K nay là ấp Vinh A, xã Ngọc B, huyện G, tỉnh K do ông Mai Văn S đứng tên quyền sử dụng đất.

Trường hợp số tiền thu được từ việc xử lý tài sản đảm bảo không đủ để thanh toán các khoản nợ cho Ngân hàng thì ông Mai Văn S, bà Nguyễn Thị Nh có nghĩa vụ tiếp tục trả hết số tiền nợ. Nếu sau khi xử lý tài sản thế chấp giá trị lớn hơn khoản nợ thì số tiền chênh lệch phải trả lại cho ông S, bà Nh.

4. Về án phí:

Yêu cầu của Ngân hàng TMCP B được Tòa án chấp nhận nên Ngân hàng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp cho Ngân hàng (đã được xử lý xong tại bản án số 36/2021/DS-ST, ngày 31/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng).

Ông Mai Văn S, bà Nguyễn Thị Nh phải chịu án phí giá ngạch là: 4.720.622 đồng (bốn triệu bảy trăm hai mươi nghìn sáu trăm hai mươi hai) đồng.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày; Ngân hàng TMCP B được tính kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày (31/3/2021). Ông S, bà Nh được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết của Tòa án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 02/2021/KDTM-ST ngày 31/03/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:02/2021/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về