Bản án 02/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN TH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận T H, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 02/2021/HSST ngày 04 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng . năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thế T, sinh năm 1991 tại V P; Hộ khẩu thường trú: Phường Đ T, Thành phố V Y, tỉnh V P; Chỗ ở: Không có nơi ở cố định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thế V và bà Nguyễn Thị T; Vợ, con: Chưa có; Gia đình có 03 A chị em, bị cáo là con thứ 3; DA chỉ bản số 000000370 do công an quận T H lập ngày 18/9/2020; Tiền sự: Không;

Tiền án: Có 05 tiền án: Bản án số 18/2009/HSST ngày 18/02/2009 Tòa án nhân dân (TAND) tp V Y, tỉnh V P xử phạt 07 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt 07 tháng tù tại bản án số 26/2008/HSST ngày 25/9/2008 của TAND huyện Tam Đảo và 06 tháng tù tại bản án số 400/2008/HSST ngày 26/9/2008 của TAND quận Hai Bà Trưng, TP H N. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của ba bản án là .(một) năm 08 (tám) tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/03/2.0, chưa bồi thường dân sự 5.000.000Đ của bản án số 18/2009/HSST ngày 18/02/2009; Bản án số 126/2.0/HSST ngày ./12/2.0 TAND tp V Y, tỉnh V P xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/8/2.2, chưa bồi thường dân sự 7.365.000Đ; Bản án số 38/2013/HSPT ngày 12/6/2013 TAND tỉnh V P xử phạt 03 năm tù về về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/11/2.5, chưa bồi thường dân sự 2.236.000Đ; Bản án số 26/2008/HSST ngày 25/9/2008 TAND huyện Tam Đảo, tỉnh V P xử phạt 07 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Bản án số 400/2008/HSST ngày 26/9/2008 của TAND quận Hai Bà Trưng, TP H N xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị bắt ngày 11/9/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1, công an Thành phố H N, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Phạm Thị A T, sinh năm 1984; Hiện trú tại: Căn hộ 1402 tòa nhà HDI T H, 68A V C C, CTB, phường X L, quận T H, H N

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan . A Vũ Ngọc ThA, sinh năm 1981; Hiện trú tại: Căn hộ 1402 tòa nhà HDIT H, 68A V C C, CTB, phường X L, quận T H, H N.

Người đại diện theo ủy quyền của A ThA: Chị Phạm Thị A T. Chị T xin vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 10/09/2020, Nguyễn Thế T đang ở ngã 3 Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, H N thì có bạn xã hội của T tên Tùng (T không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ) gọi điện rủ đi trộm cắp tài sản, T Đ ý. Sau đó, Tùng điều khiển xe máy Honda Wave màu trắng (không rõ BKS) đến đón T, Tùng đưa cho T một chiếc vam phá khóa bằng kim loại rồi chở T đi theo hướng cầu Nhật Tân về N T H N. Khi đi qua cửa hàng đá ốp lát (Kho đá P Hưng) trên đường V C C (đối diện số 68 V C C) phường X L, quận T H, T nhìn thấy chiếc xe Honda SH MODE màu đen BKS: 29Y1-187.99 của chị Phạm Thị A T đang dựng trên vỉa hè, bên phải cổng ra vào, không có người trông giữ. T nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe và bảo Tùng quay lại, khi cách cửa hàng đá khoảng 6 mét, Tùng dừng lại cho T xuống xe, T đi về phía chiếc xe, Tùng ở ngoài cảnh giới. Quan sát xung quanh thấy không có người, T lén lút dùng chiếc vam phá ổ khóa chiếc xe, sau đó dùng chiếc chìa khoá (do T chuẩn bị từ trước) cắm vào ổ khoá xe vừa trộm cắp được điều khiển chạy về hướng Đông A, còn Tùng đi xe máy theo sau T.

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 10/09/2020, Tổ công tác công an xã X Nộn, huyện Đông A đang làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực điểm đề số 21 Tộc thôn X Nộn, xã X Nộn, huyện Đông A, H N, phát hiện T đang điều khiển xe máy Honda SH MODE màu đen BKS: 29Y1-187.99 có biểu hiện nghi vấn nên đã dừng xe kiểm tra thì T bỏ chạy, tổ công tác đã bắt giữ T và đưa về công an xã X Nộn để làm rõ. Sau khi phát hiện bị mất xe, chị T có đơn trình báo đến công an phường X L.

Cơ quan cảnh sát điều tra (CQCSĐT) T giữ của Nguyễn Thế T:. xe máy Honda SH MODE màu đen BKS: 29Y1-187.99, SK: 0724.; SM: 0073378;. chìa khóa đã qua sử dụng; . điện thoại di động Samsung đã qua sử dụng; số tiền 226.000Đ. Ngày 10/09/2020, CQCSDT công an huyện Đông A đã bàn giao vụ việc cho CQCSĐT công an quận T H để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Kết luận định giá tài sản số 170/BB-HĐĐG ngày 11/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự, UBND quận T H kết luận: Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH MODE mang BKS: 29Y1-187.99 bị T chiếm đoạt có trị giá là 25.000.000Đ (hai mươi lăm triệu đồng).

Kết quả giám định chiếc xe máy Honda SH MODE mang BKS: 29Y1-187.99, SK: 0724.; SM: 0073387 là số nguyên thủy, xe không có trong hệ thống dữ liệu xe máy vật chứng, chủ phương tiện A Vũ Ngọc ThA (chồng chị T). A ThA khai, A mua chiếc xe trên từ năm 2.4, A ThA ủy quyền cho chị T giải quyết những vấn đề liên quan đến chiếc xe.

Ngày 10/11/2020, CQCSDT công an quận T H đã trao trả chiếc xe máy cho chị T, gia đình T bồi thường khắc phục hậu quả cho chị T số tiền là 3.100.000đ (ba triệu một trăm nghìn đồng), chị T đã nhận lại xe và tiền bồi thường, không có yêu cầu, đề nghị gì về dân sự. Đề nghị xử lý vụ việc theo quy định của pháp luật.

Đối với đối tượng tên Tùng, T khai: Tùng là bạn xã hội quen khi ở Trại giam Quyết Tiến, Tuyên Quang, Tùng sử dụng số thuê bao 0392037410, CQCSĐT công an quận T H đã tiến hành điều tra nhưng không xác định được đối tượng Tùng như lời khai của T và đã ra Quyết định số 48 ngày 09/12/2020 tách rút tài liệu liên quan đến đối tượng Tùng để tiếp tục xác minh làm rõ.

Cáo trạng số 10/CT-VKS ngày 30/12/2020 VKSND quận T H đã truy tố Nguyễn Thế T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015.

Đại diện VKSND quận T H luận tội: Sau khi phân tích nội dung vụ án, giữ nguyên quyết định truy tố, kết luận Nguyễn Thế T phạm tội “Trộm cắp tài sản” đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326 về án lệ phí Tòa án. Xử phạt bị cáo từ 36 đến 42 tháng tù; về hình phạt bổ sung không áp dụng;Tịch thu sung quỹ nhà nước: . điện thoại di động Samsung đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo; Trả lại cho bị cáo số tiền 226.000đ (hai trăm hai mươi sáu nghìn Đ). Tịch thu tiêu hủy . chìa khóa đã qua sử dụng; Bị cáo phải nộp 200.000Đ án phí hình sự sơ thẩm; Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo biết việc bị cáo trộm cắp tài sản của chị T là sai, vi phạm pháp luật, đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của CQĐT công an quận T H, Điều tra viên, VKSND quận T H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại CQĐT, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 10/09/2020, tại cửa hàng đá ốp lát (Kho đá P Hưng) trên đường V C C (đối diện số 68 V C C) phường X L, quận T H, H N, Nguyễn Thế T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Phạm Thị A T chiếc xe máy Honda SH MODE màu đen BKS: 29Y1-187.99 có trị giá 25.000.000Đ (hai mươi lăm triệu đồng).

Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận T H đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trong khu vực, gây mất lòng tin trong quần chúng nhân dân.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: HĐXX xét thấy: Tại bản án số 18/2009/HSST ngày 18/02/2009 TAND Thành phố V Y, tỉnh V P xử phạt bị cáo 07 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt 07 tháng tù tại bản án số 26/2008/HSST ngày 25/9/2008 của TAND huyện Tam Đảo và 06 tháng tù tại bản án số 400/2008/HSST ngày 26/9/2008 của TAND quận Hai Bà Trưng. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của ba bản án là .(một) năm 08 (tám) tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/03/2.0, chưa bồi thường dân sự 5.000.000đồng của bản án số 18/2009/HSST ngày 18/02/2009; Bản án số 126/2.0/HSST ngày ./12/2.0 TAND thành phố V Y, tỉnh V P xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/8/2.2, chưa bồi thường dân sự 7.365.000đồng; Bản án số 38/2013/HSPT ngày 12/6/2013 TAND tỉnh V P xử phạt bị cáo 03 năm tù về về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/11/2.5, chưa bồi thường dân sự 2.236.000đồng. Các tiền án trên bị cáo chưa được xóa án tích. Như vậy bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo Tộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung, quy định tại điểm g khoản 2 điều 173, không thuộc tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm h khoảng 1 Điều 52 BLHS. Ngoài ra tại bản án số 26/2008/HSST ngày 25/9/2008 TAND huyện Tam Đảo, tỉnh V P xử phạt 07 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Bản án số 400/2008/HSST ngày 26/9/2008 của TAND quận Hai Bà Trưng, TP H N xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/03/2.0 xác định bị cáo có nhân thân xấu. Căn cứ tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng: Không có. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại CQĐT và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị cáo trộm cắp đã thu hồi được và trả lại cho bị hại, bị cáo đã tác động đến gia đình tự nguyện bồi thường số tiền 3.100.000đồng (là tiền sửa chữa chiếc xe) nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường về dân sự nên không xét.

Đối với số tiền 3.100.000đồng anh Nguyễn Văn Toản (sinh năm 1985; HKTT: TDP Hùng Vương, phường Đ T, tp V Y, tỉnh V P là A trai của bị cáo) tự nguyện bồi thường cho chị T. Anh Toản khai, tiền đó là của anh, anh tự nguyện bồi thường cho chị T thay bị cáo và không yêu cầu Tòa án giải quyết về số tiền trên nên A Nguyễn Văn Toản không được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Về vật chứng: Đối với. điện thoại di động thu giữ của bị cáo, bị cáo có dùng liên lạc với Tùng rủ nhau đi trộm cắp tài sản nên tịch thu sung quỹ nhà nước, số tiền 226.000đồng là tài sản của bị cáo nên trả lại cho bị cáo. Tịch thu tiêu hủy . chìa khóa đã qua sử dụng. Bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Các Điều 106, 331,333, 337 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thế T 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/9/2020.

Xử lý vật chứng (hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận TH và Kho bạc nhà nước quận T H:Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/7/2020, giấy nộp tiền ngày 08/12/2020):

Tịch thu sung quỹ nhà nước: . điện thoại di động Samsung GaLxy S9+ đã qua sử dụng; IMEI 1: 355220096192662, IMEI2: 35522109.92660.

Trả lại bị cáo số tiền 226.000đ (hai trăm hai mươi sáu nghìn đồng).

Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tây Hồ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về