Bản án 02/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 07/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 533/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 550/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Võ Tuấn E, sinh năm 1996 tại tỉnh Quảng Ngãi; thường trú: Xóm B, thôn V T, xã T H, huyện S T, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Võ Đình Thanh, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1969; bị cáo có 03 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 22/7/2015, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 40 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, theo Bản án hình sự phúc thẩm số 108/2015/HSPT, chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2017; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2020 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Công ty TNHH SX-TM-DV Đ Tr Gi; địa chỉ trụ sở: Số 184/58A khu phố B, phường T T, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Thanh L; chức vụ: Giám đốc; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Công ty TNHH Unipax; địa chỉ trụ sở: Lô 102/2 + 101/4 đường số B, khu công nghiệp A, phường L B, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Phạm Thị Hoàng A; chức vụ: Trưởng phòng xuất nhập khẩu của Công ty; vắng mặt.

2. Công ty TNHH HS Logistics; có trụ sở tại: Số 37BB đường T Đ Th, phường B Ngh, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Tấn Đ; chức vụ: Quản lý điều hành của Công ty; vắng mặt.

3. Ông Trần Ngọc L, sinh năm 1981; thường trú: Ấp Ph L H, xã A Đị, huyện M C N, tỉnh Bến Tre; vắng mặt.

4. Ông Võ Minh Tr, sinh năm 1992; thường trú: Xóm B, thôn V T, xã T H, huyện S T, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.

5. Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1991 tại tỉnh Quảng Ngãi; thường trú: Tổ dân phố B, khu dân cư N, thị trấn Tr X, huyện Tr B, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.

6. Anh Trần Đức Th, sinh năm 1995 tại tỉnh Quảng Ngãi; thường trú: Thôn X Ph Đ, xã Ngh K, huyện T Ngh, tỉnh Quảng Ngãi; tạm trú: Số 59/18A khu phố T Ph, phường T B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

7. Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1995 tại tỉnh Quảng Ngãi; thường trú: Thôn X Ph Đ, xã Ngh K, huyện T Ngh, tỉnh Quảng Ngãi; tạm trú: Số 59/18A khu phố T Ph, phường T B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

8. Anh Võ T, sinh năm 1993 tại tỉnh Quảng Ngãi; thường trú: Thôn T Đ, xã Đ Th, huyện M Đ, tỉnh Quảng Ngãi; tạm trú: Số 59/18A khu phố T Ph, phường T B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người chứng kiến:

1. Anh Đặng Thanh N, sinh năm 1979; vắng mặt.

2. Chị Hứa Thị Ngọc Nh, sinh năm 1976; vắng mặt.

3. Chị Ngô Thị L, sinh năm 1981; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Tuấn E là tài xế xe ô tô tải biển số 60V - 0540 của Công ty TNHH SX-TM-DV Đ Tr Gi hợp đồng vận chuyển hàng nón hiệu N cho Công ty TNHH U tại khu công nghiệp A, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai đi kho ngoại quan Th B Shoes tại khu phố Ng Th, phường B Th, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn Đ, Đinh Quốc D, Nguyễn Hữu H, Võ T, Trần Đức Th bạn bè quen biết với Võ Tuấn E.

Khoảng 07 giờ ngày 28/3/2020, Nguyễn Minh H rủ Nguyễn Văn Đ, sau đó Đ rủ Đinh Quốc D, Võ T, Trần Đức Th, Nguyễn Hữu H đi trộm cắp tài sản thì tất cả đồng ý. Cả nhóm đi trên 03 xe mô tô gồm: Đinh Quốc D điều khiển xe mô tô biển số 71B2 – 670.47 chở Nguyễn Văn Đ; Trần Đức Th điều khiển xe mô tô không rõ biển số chở Võ T; Nguyễn Minh H điều khiển xe mô tô biển số 76D1 – 319.84 chở Nguyễn Hữu H đi đến cổng khu công nghiệp Amata thuộc thành phố B H, tỉnh Đồng Nai chờ Võ Tuấn E.

Đến khoảng 08 giờ 30 cùng ngày, Võ Tuấn E điều khiển xe ô tô tải biển số 60V – 0540 chạy ra khỏi khu công nghiệp A nên tất cả đi theo. Khi đi qua khỏi cầu vượt A khoảng 200m thì Võ Tuấn E dừng xe bên lề đường để cho Võ T, Đinh Quốc D, Nguyễn Văn Đ dùng khóa 13 mở bản lề cửa thùng xe (vẫn nguyên nẹp chì) chui vào trong trộm cắp hàng hóa. Võ T, Đinh Quốc D, Nguyễn Văn Đ dùng dao rạch băng keo các thùng catton lấy nón N bỏ vào 03 bao tải, sau đó dùng băng keo dán lại như cũ. Sau khi để đồng bọn chui vào trong thùng xe, Tuấn E đóng cửa thùng xe lại và tiếp tục điều khiển xe ô tô tải về hướng Bình Dương, còn Th, H, H1 điều khiển xe mô tô chạy theo sau cảnh giới.

Khi đi đến đoạn đường khu dân cư kế bên hông bến xe bus T V thuộc khu phố Ng Th, phường B Th, thành phố D A, tỉnh Bình Dương thì Tuấn E cho xe ô tô dừng lại, mở cửa thùng xe để đồng bọn vứt xuống 03 bao tải bên trong có 1302 nón lưỡi trai nhãn hiệu Nike các loại. Sau đó Tuấn E đóng cửa thùng xe lại và điều khiển xe ô tô đi giao hàng.

Lúc này Công an phường B Th, thành phố D A đi tuần tra ngang qua thấy có dấu hiệu khả nghi nên tiến hành kiểm tra. Khi thấy Công an xuất hiện Trần Đức Th điều khiển xe mô tô chở 01 bao tải hàng gồm 696 nón lưỡi trai nhãn hiệu N bỏ chạy trước. H, Đ, Võ T bỏ chạy bộ tẩu thoát, còn D và H bị bắt giữ. Trên đường tầu thoát, Trần Đức Th vứt bỏ bao tải hàng rồi sau đó trả xe mô tô cho người bạn tên L (không rõ nhân thân, lai lịch) nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố D A không thu hồi được.

Ngày 06/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, sau đó ra Quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam đối với Đinh Quốc D và Nguyễn Hữu H về tội Trộm cắp tài sản.

Ngày 28/7/2020, Trần Đức Th và Nguyễn Văn Đ ra đầu thú, sau đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An ra quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam để điều tra về tội Trộm cắp tài sản.

Ngày 20/8/2020 Võ T ra đầu thú, sau đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An ra quyết định khởi tố bị can, lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra về tội Trộm cắp tài sản.

Đối với Nguyễn Minh H hiện đang bỏ trốn, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đã ra quyết định khởi tố bị can, lệnh truy nã, quyết định tách vụ án, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

Ngày 25/9/2020, Võ Tuấn E bị bắt theo lệnh truy nã, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương ra quyết định phục hồi điều tra, lệnh tạm giam cho đến nay.

Ngày 26/9/2020, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt các bị cáo Nguyễn Hữu H, Nguyễn Văn Đ, Đinh Quốc D, Võ T, Trần Đức Th, mỗi bị cáo 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm theo Bản án hình sự sơ thẩm số 431/2020/HSST.

* Vật chứng vụ án: 01 xe mô tô biển số 71B2 – 670.47; 01 xe mô tô biển số 76D1 - 319.84; 01 lưỡi dao rọc giấy bằng sắt; 02 cuộn băng keo; 02 bảo tải bên trong có 606 chiếc nón lưỡi trai nhãn hiệu Nike gồm: 270 nón lưỡi trai nhãn hiệu Nike, mã hàng AV6956; 108 nón lưỡi trai nhãn hiệu Nike, mã hàng CU7820; 888 nón lưỡi trai nhãn hiệu Nike, mã hàng CW5921; 36 nón lưỡi trai nhãn hiệu Nike, mã hàng CN7359.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 69/BB.ĐG ngày 20/4/2020 của Hội đồng định giá thành phố Dĩ An, kết luận: 270 nón lưỡi trai nhãn hiệu Nike, mã hàng AV6956 trị giá 24.193.620 đồng; 108 nón lưỡi trai nhãn hiệu Nike, mã hàng CU7820 trị giá 10.483.884 đồng; 888 nón lưỡi trai nhãn hiệu Nike, mã hàng CW5921 trị giá 66.722.544 đồng; 36 nón lưỡi trai nhãn hiệu Nike, mã hàng CN7359 trị giá 2.755.504 đồng. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt 104.155.552 đồng.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không ý kiến hay khiếu nại gì Kết luận định giá số 69/BB.ĐG ngày 20/4/2020 của Hội đồng định giá thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Cáo trạng số: 09/CT – VKS-DA ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Võ Tuấn E về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 71B2 – 670.47, là tài sản hợp pháp của chị Trần Ngọc L, chị L không biết Nguyễn Văn Đ mượn xe đi thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A đã trả lại xe cho chị Lệ.

- Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 76D1 – 319.84, là tài sản hợp pháp của anh Võ Minh Tr, anh Trung không biết Nguyễn Hữu H mượn xe đi thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A đã trả lại xe cho anh Tr.

- Đối với 606 chiếc nón lưỡi trai nhãn hiệu Nike gồm: 270 nón lưỡi trai nhãn hiệu Nike, mã hàng AV6956; 108 nón lưỡi trai nhãn hiệu N, mã hàng CU7820; 888 nón lưỡi trai nhãn hiệu Nike, mã hàng CW5921; 36 nón lưỡi trai nhãn hiệu Nike, mã hàng CN7359, Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Dĩ An đã trả lại cho Công ty TNHH U.

- Đối với 01 (một) lưỡi dao rọc giấy bằng sắt và 02 cuộn băng keo là công cụ sử dụng vào việc phạm phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

* Về trách nhiệm dân sự: Theo hợp đồng vận chuyển, công ty TNHH SX-TM- DV Đ Tr Gi phải chịu trách nhiệm về tài sản trên đường vận chuyển khi có thiệt hại xảy ra. Theo đó các bị cáo Đinh Quốc D, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Văn Đ, Trần Đức Th, Võ T đã thỏa thuận bồi thường cho Công ty TNHH SX-TM-DV Đ Tr Gi số tiền 56.753.557 đồng, Công ty TNHH SX-TM-DV Đ Tr Gi đã nhận đủ số tiền và không có yêu cầu gì thêm.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo và các bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai của bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, biên bản bắt người theo lệnh truy nã và những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 28/3/2020, tại khu phố Ng Th, phường B Th, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Võ Tuấn E cùng đồng phạm đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 606 chiếc nón lưỡi trai nhãn hiệu N các loại, có tổng trị giá 104.155.552 đồng của công ty TNHH SX-TM-DV Đ Tr Gi thì bị phát hiện và bắt giữ [3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo cùng đồng phạm đã lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại có tổng giá 104.155.552 đồng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 09/CT-VKS ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức bị cáo hoàn toàn biết hành vi trộm cắp tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vì lòng tham, muốn kiếm tiền nhanh chóng không phải lao động để phục vụ nhu cầu bản thân mà bị cáo cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là giản đơn không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội nên không xem là phạm tội có tổ chức. Bị cáo tham gia với vai trò là người thực hành.

[6] Tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[9] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo đã từng bị Tòa án xét xử về tội Cố ý gây thương tích, đã được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời trong quá trình điều tra bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[10] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng, xâm phạm đến tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, đồng thời bị cáo là người có nhân thân xấu, hành vi phạm tội của bị cáo ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[11] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Đã được giải quyết tại Bản án hình sự sơ thẩm số 431/2020/HSST ngày 26/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[12] Đối với Nguyễn Hữu H, Nguyễn Văn Đ, Đinh Quốc D, Võ T, Trần Đức Th bị Tòa án nhân dân thành phố D A, tỉnh Bình Dương xử phạt mỗi bị cáo 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm theo Bản án hình sự sơ thẩm số 431/2020/HSST và đối Nguyễn Minh H hiện đang bỏ trốn, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D A đã ra quyết định khởi tố bị can, lệnh truy nã, quyết định tách vụ án, khi nào bắt được sẽ xử lý sau, là đúng theo quy định của pháp luật.

[13] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[14] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Võ Tuấn E phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;.

- Xử phạt bị cáo Võ Tuấn E 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/9/2020.

2. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Võ Tuấn E phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:02/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về