Bản án 02/2021/HS-PT ngày 13/01/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 02/2021/HS-PT NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 187/2020/TLPT- HS ngày 09 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn N, Nguyễn H do có kháng cáo của bị cáo N và bị hại Lê Tấn T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 65/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn N, sinh năm 1995; nơi cư trú: số 456, ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Bé N và bà Trần Thị T; tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Bị cáo bị kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn H, sinh năm: 1980; nơi cư trú: ấp H, xã Q, huyện L, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Phan Thị T; tiền án: không; tiền sự: không.

- Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo hoặc có liên quan đến kháng cáo:

- Bị hại: Lê Tấn T, sinh năm: 1990; nơi cư trú: ấp T, xã Q, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn N và Lê Tấn T có mâu thuẫn đánh nhau từ khoảng tháng 8/2019.

Vào khoảng 18 giờ ngày 05/12/2019, trong lúc đi làm về thì N bị một nhóm thanh niên đánh nên nghi ngờ việc mình bị đánh là do T gây nên; N điện thoại cho Nguyễn H kể lại sự việc trên. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, khi đang điều khiển xe trên đường, N nhìn thấy có người điều khiển xe mô tô chở T nên đuổi theo mục đích hỏi việc mình bị đánh có phải do T gây ra hay không, nhưng N không đuổi theo kịp. Sau đó N điều khiển xe đến quán của chị Trần Kim Duyên trú tại ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp là mợ của N kể lại sự việc bị đánh, đồng thời tìm kiếm T; chị Duyên gọi điện thoại cho H thông báo việc N bị đánh; H lấy 01 con dao tự chế dài khoảng 30 cm, mục đích gây thương tích cho T để bênh vực N; H 01 tay cầm dao, 01 tay điều khiển xe mô tô đến quán của chị D; khi cách quán khoảng 30 mét thì H gặp N; N nói với H là T đi hướng bên kia cầu, nên H điều khiển xe chở N đi tìm T. Trên đường đi, H nói với N trường hợp có sự việc xảy ra đánh nhau với T thì H giúp sức cho N, N đồng ý; đi được một đoạn thì N điều khiển xe chở H do H say rượu.

Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, H và N gặp T cùng một số thanh niên đang bắt chuột cạnh bờ đê nên dừng xe; H và N bước xuống xe tiến đến vị trí T đứng, T thấy H và N đi đến nên bỏ chạy; N và H đuổi theo T một đoạn thì té ngã; do không đuổi kịp T nên N kêu H quay lại lấy xe tiếp tục đuổi theo T đến khu vực nhà anh Nguyễn Chí L ngụ ấp H, xã Q, huyện L, thì đuổi kịp T; N xông vào đánh T đồng thời lấy con dao bấm dài khoảng 20 cm, để trong túi quần đâm vào vùng vai, tay, chân và bụng của T, T té ngã; lúc này H điều khiển xe chạy tới, H dùng tay bóp cổ T đồng thời dùng dao mang theo định đâm vào vùng bụng của T thì nhìn thấy chân T chảy nhiều máu nên chỉ dùng tay đánh hai cái vào vùng mặt của T; lúc này có anh Huỳnh Hữu C can ngăn nên H và N bỏ về, T được đưa đi cấp cứu, sau đó trình báo công an.

Theo kết luận giám định pháp y về thương tích số 10/2020/TgT ngày 31/01/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Long kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Lê Tấn T là 14%.

Về bồi thường thiệt hại: bị hại Lê Tấn T yêu cầu bồi thường số tiền tổng cộng là 82.100.000 đồng, gồm: tiền điều trị vết thương, tiền thuê phương tiện trong quá trình điều trị, tiền công lao động, tiền ăn của người chăm sóc là 17.100.000 đồng; tiền tổn thất tinh thần là 65.000.000 đồng.

Nguyễn Văn N đồng ý tiền điều trị vết thương, tiền thuê phương tiện trong quá trình điều trị, tiền công lao động, tiền ăn của người chăm sóc là 11.400.000 đồng; tiền tổn thất tinh thần là 13.600.000 đồng, đã bồi thường 20.000.000 đồng.

Nguyễn H chỉ đồng ý bồi thường tiền tổn thất tinh thần là 7.000.000 đồng, nhưng chưa bồi thương.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã tiến hành tìm kiếm 02 con dao của N và H nhưng không gặp.

Tại bản án Hình sự sơ thẩm số: 65/2020/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện L đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N, Nguyễn H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Xử phạt bị cáo Nguyễn H 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: căn cứ Điều 584, 585, 586, 587, 590 của Bộ luật Hình sự.

Công nhận sự thỏa thuận giữa bị hại Lê Tấn T với bị cáo Nguyễn Văn N về mức bồi thường thiệt hại chi phí điều trị bệnh, tiền mất thu nhập của bị hại, tiền mất thu nhập của người nuôi bệnh, tiền thuê phương tiện đi lại số tiền là 17.100.000 đồng, bị cáo Nđã khắc phục xong.

Buộc bị cáo N và bị cáo H liên đới bồi thường tiếp cho bị hại Lê Tấn T số tiền tốn thất tinh thần là 20.000.000 đồng, bị cáo N đã bồi thường 20.000.000 đồng và nộp tại Cơ quan thi hành án dân sự huyện L số tiền 5.000.000 đồng theo biên lai thu số 0002676, nên được khấu trừ; buộc bị cáo N bồi thường tiếp cho bị hại số tiền 2.100.000 đồng.

Bị cáo H đã nộp khắc phục tại Cơ quan thi hành án dân sự huyện L số tiền 1.000.000 đồng theo biên lai thu số 0002714, nên được khấu trừ, buộc bị cáo H bồi thường tiếp cho bị hại số tiền 9.000.000 đồng.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng; án phí;

nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo vụ án theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12 tháng 10 năm 2020 bị cáo Nguyễn Văn N có đơn kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 06 tháng 10 năm 2020, bị hại Lê Tấn T có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu tòa phúc thẩm giải quyết:

1. Xử lại toàn bộ nội dung vụ án theo hướng xử bị cáo Nguyễn Văn N, Nguyễn H về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

2. Buộc bị cáo N và H phải bồi thường cho bị hại tổng cộng là 67.100.000 đồng gồm các khoản:

Tiền thuốc: 9.200.000đ Tiền ngày công lao động 09 ngày: 09x 300.000đ/ngày = 2.700.000 đồng. Tiền người nuôi bệnh 06 ngày: 6 x 300.000đ/ngày = 1.800.000 đồng.

Tiền ăn của bị hại và người nuôi bệnh 6 ngày: 6 x 200.000đ/ngày = 1.200.000 đồng Tiền xe chuyển bệnh đi và về: 1.000.000 đồng Tiền xe đi và về của người nuôi bệnh 06 ngày: 6x 200.000đ/ngày = 1.200.000 đồng Tiền tổn thất tinh thần: 50.000.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo N trình bày: vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa bị hại vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo tăng mức bồi thường tổn thất tinh thần và xét xử các bị cáo ở khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là tăng hình phạt đối với các bị cáo N, H.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích hành vi phạm tội của các bị cáo, phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo N, không chấp nhận kháng cáo của bị hại T; giữ nguyên bản án sơ thẩm số 65/2020/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện L. Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 09 (chín) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt. Xử phạt bị cáo Nguyễn H 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt. Buộc bị cáo Nguyễn Văn N và bị cáo Nguyễn H bồi thường tiền tổn thất tinh thần cho bị hại T là 20.000.000 đồng.

Lời nói sau cùng của bị cáo N, H: xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng; do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Nvà T đã có mâu thuẫn từ trước, đến khoảng 18 giờ ngày 05/12/2019 N bị nhóm thanh niên đánh, N nghi ngờ do T kêu nhóm thanh niên đánh, nên N chạy đi tìm T nhưng không gặp, N báo với H thì được H đồng ý đi giúp sức cho N. Đến khoảng 21 giờ 30 cùng ngày H và N gặp T cùng một số thanh niên đang bắt chuột cạnh bờ đê nên dừng xe; Ân và N bước xuống xe tiến đến vị trí T đứng, T thấy Ân và N đi đến nên bỏ chạy; N và H đuổi theo T một đoạn thì té ngã; do không đuổi kịp T, nên N kêu H quay lại lấy xe tiếp tục đuổi theo T đến khu vực nhà anh Nguyễn Chí L ngụ ấp H, xã Q, huyện L, thì đuổi kịp T; N xông vào đánh T đồng thời lấy con dao bấm dài khoảng 20 cm, để trong túi quần đâm vào vùng vai, tay, chân và bụng của T, T té ngã; lúc này H điều khiển xe chạy tới, H dùng tay bóp cổ T đồng thời dùng dao mang theo định đâm vào vùng bụng của T thì nhìn thấy chân T chảy nhiều máu nên chỉ dùng tay đánh hai cái vào vùng mặt của T, lúc này có anh Huỳnh Hữu C can ngăn nên H và N bỏ về. Theo kết luận giám định pháp y về thương tích số 10/2020/TgT ngày 31/01/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Long kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Lê Tấn T là 14%. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo H và N về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2.1] Đối với kháng cáo của N xin giảm nhẹ hình phạt là không căn cứ, tuy bị cáo có khắc phục toàn bộ thiệt hại cho bị hại, nhưng cấp sơ thẩm đã xem xét hết các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo N.

[2.2] Đối với kháng cáo của bị hại T yêu cầu xem xét về hình phạt đối với bị cáo H và N, đề nghị xét xử ở khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự tăng hình phạt đối với 02 bị cáo. Xét thấy khi áp dụng hình phạt đối với các bị cáo cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng Điều 54 để tụt khung hình hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ đúng quy định pháp luật và mức hình phạt cấp sơ thẩm quyết định cũng đủ để răn đe giáo dục bị cáo, nên không chấp nhận tăng hình phạt theo đơn kháng cáo của bị hại T.

Đối với kháng cáo tăng mức bồi thường tiền là 67.100.000 đồng, trong đó tiền tổn thất tinh thần là 50.000.000 đồng, các khoản chi phí tiền thuốc, ngày công lao động, tiền mất thu nhập người nuôi bệnh…tổng cộng là 17.100.000 đồng. Xét thấy, tại cấp sơ thẩm bị cáo N đã đồng ý bồi thường toàn bộ các chi phí tổng cộng là 17.100.000 đồng theo yêu cầu của bị hại T nên đối với các khoản bồi thường thiệt hại này tòa không xem xét. Đối với yêu cầu bồi thường tiền tổn thất tinh thần 50.000.000 đồng, cấp sơ thẩm đã chấp nhận một phần yêu cầu và buộc bị cáo N và bị cáo H bồi thường tiền tổn thất tinh thần 20.000.000 đồng là có căn cứ và phù hợp quy định pháp luật; do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị hại T.

[3] Lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: do không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N, nên bị cáo N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[5] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N, không chấp nhận kháng cáo của bị hại Lê Tấn T; giữ nguyên bản án sơ thẩm số 65/2020/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện L.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 09 (chín) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Xử phạt bị cáo Nguyễn H 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Về trách nhiệm dân sự: căn cứ Điều 590 của Bộ luật Dân sự.

Công nhận sự tự nguyện của bị cáo Nguyễn Văn N về mức bồi thường thiệt hại chi phí điều trị bệnh, tiền mất thu nhập của bị hại, tiền mất thu nhập của người nuôi bệnh, tiền thuê phương tiện đi lại tổng cộng số tiền là 17.100.000 đồng.

Buộc bị cáo N và bị cáo H liên đới bồi thường tiền tổn thất tinh thần là 20.000.000 đồng, mỗi bị cáo phải bồi thường 10.000.000 đồng.

Tổng cộng buộc bị cáo Nguyễn Văn N phải bồi thường cho bị hại Lê Tấn T 27.100.000 đồng. Bị cáo N đã giao cho bị hại Lê Tấn T 20.000.000 đồng, khấu trừ bị cáo N phải bồi thường tiếp 7.100.000 đồng. Bị cáo N đã nộp tại Cơ quan thi hành án dân sự huyện L số tiền 5.000.000 đồng theo biên lai thu số 0002676 ngày 04/9/2020 và 2.100.000 đồng theo biên lai thu số 0002788 ngày 15/10/2020; tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tổng cộng buộc bị cáo Nguyễn H phải bồi thường cho bị hại Lê Tấn T 10.000.000 đồng, bị cáo H đã nộp tại Cơ quan thi hành án dân sự huyện L số tiền 1.000.000 đồng theo biên lai thu số 0002714 ngày 17/9/2020, tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Căn cứ khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HS-PT ngày 13/01/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:02/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về