Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 27/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 27 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 308/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2021 về việc Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thùy L; địa chỉ cư trú: Số 26*, đường Hoàng Văn T, khu *, thị trấn Thất K, huyện Tràng Đ, tỉnh Lạng S; có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Quốc H; địa chỉ cư trú: Số 9*, đường Bắc S, khối *, phường Hoàng Văn T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng S; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 30/11/2020, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Vũ Thùy L trình bày:

Năm 2012, chị và anh Trần Quốc H có đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện tại Ủy ban nhân dân phường Hoàng Văn T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng S. Sau khi cưới, thời gian đầu tình cảm vợ chồng bình thường, trong quá trình chung sống, chị và anh Trần Quốc H thường xuyên xảy ra cãi vã do bất đồng quan điểm sống, chị và anh Trần Quốc H đã ly thân từ năm 2018. Chị và anh Trần Quốc H đã nhiều lần cố gắng hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh Trần Quốc H, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Quốc H. Về con chung, chị và anh Trần Quốc H có 01 con chung là cháu Trần Vũ Hoàng A, sinh ngày 11/5/2013, hiện nay con chung đang ở với chị, do tính chất công việc anh Trần Quốc H thường xuyên đi làm ăn xa nên không có điều kiện chăm sóc con, do đó khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh Trần Quốc H phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng đều không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Anh Trần Quốc H vắng mặt tại phiên toà, tại văn bản ngày 12/01/2021, anh Trần Quốc H trình bày: Anh và chị Vũ Thùy L được tìm hiểu và đăng ký kết hôn tự nguyện tại Ủy ban nhân dân phường Hoàng Văn T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng S. Thời gian đầu sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Nhưng trong 03 năm gần đây, anh và chị Vũ Thùy L thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau do tính chất công việc của anh là lái xe, thường xuyên về muộn, không dành nhiều thời gian để quan tâm vợ con, ít chia sẻ với chị Vũ Thùy L công việc gia đình. Anh và chị Vũ Thùy L ly thân đến nay đã 02 năm, hiện nay chị Vũ Thùy L và con đã về ở nhà mẹ đẻ tại thị trấn Thất K, huyện Tràng Đ, tỉnh Lạng S. Anh và chị Vũ Thùy L đã cố gắng hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay anh xác định tình cảm không còn, chị Vũ Thùy L yêu cầu ly hôn, anh đồng ý. Về con chung: Anh và chị Vũ Thùy L có 01 con chung là cháu Trần Vũ Hoàng A, sinh ngày 11/5/2013. Khi ly hôn, anh Trần Quốc H đồng ý để chị Vũ Thùy L được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi và anh không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Vũ Thùy L không yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng đều không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết, anh đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng S phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thành phần tham gia xét xử tại phiên tòa đúng với thành phần Hội đồng xét xử được ghi trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án như xác định đúng thẩm quyền, đúng tư cách các đương sự, cấp tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ quyền hạn của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ cùng tài liệu chứng cứ được công khai tại phiên tòa đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Vũ Thùy L được ly hôn với anh Trần Quốc H là có căn cứ; về con chung: Chị Vũ Thùy L và anh Trần Quốc H có 01 con chung là cháu Trần Vũ Hoàng A, sinh ngày 11/5/2013. Khi ly hôn, chị Vũ Thùy L được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi và anh Trần Quốc H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Vũ Thùy L không yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không xem xét giải quyết; về án phí: Chị Vũ Thùy L là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Ngày 30/11/2020, chị Vũ Thùy L có đơn đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn giải quyết vụ án hôn nhân gia đình giữa chị và anh Trần Quốc H, bị đơn anh Trần Quốc H có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 9*, đường Bắc S, khối *, phường Hoàng Văn T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng S. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ Luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn.

[2] Về việc vắng mặt bị đơn: Tòa án đã thực hiện việc tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Bị đơn anh Trần Quốc H cũng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thùy L và anh Trần Quốc H kết hôn và chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, ngày 18/9/2012 đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Hoàng Văn T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng S. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thùy L và anh Trần Quốc H là hợp pháp. Sau khi về chung sống được một thời gian hai bên đã phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn được và đã ly thân 02 năm. Như vậy, chị Vũ Thùy L và anh Trần Quốc H đã không thực hiện đúng nghĩa vụ vợ chồng, không còn sống chung với nhau, không có sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc nhau. Qua xác minh chính quyền địa phương tại nơi đương sự cư trú và ý kiến của bà Bùi Thị M (là mẹ đẻ của anh Trần Quốc H) được biết chị Vũ Thùy L và anh Trần Quốc H không còn chung sống với nhau, chị Vũ Thùy L và con chung đã về nhà mẹ đẻ sinh sống. Xét thấy, quan hệ hôn nhân của chị Vũ Thùy L và anh Trần Quốc H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thùy L là có căn cứ, cần chấp nhận, do đó cần xử cho chị Vũ Thùy L được ly hôn với anh Trần Quốc H là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Chị Vũ Thùy L và anh Trần Quốc H có 01 con chung là cháu Trần Vũ Hoàng A, sinh ngày 11/5/2013. Trong quá trình giải quyết vụ án chị Vũ Thùy L có nguyện vọng sau ly hôn được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trần Vũ Hoàng A đến khi trưởng thành, đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh Trần Quốc H phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Trần Quốc H cũng nhất trí để chị Vũ Thùy L nuôi dưỡng cháu Trần Vũ Hoàng A sau ly hôn. Hội đồng xét xử thấy rằng từ khi chị Vũ Thùy L và anh Trần Quốc H sống ly thân, chị Vũ Thùy L là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Vũ Hoàng A đến nay, cháu Trần Vũ Hoàng A cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Do vậy để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển về mọi mặt của cháu Trần Vũ Hoàng A, Hội đồng xét xử thấy rằng cần giao cháu Trần Vũ Hoàng A cho chị Vũ Thùy L được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp. Do chị Vũ Thùy L không yêu cầu anh Trần Quốc H phải cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét đề cập. Anh Trần Quốc H có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được ngăn cản.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, nguyên đơn chị Vũ Thùy L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 228; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thùy L ly hôn với anh Trần Quốc H.

(Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 78, ngày 18/9/2012 tại Ủy ban nhân dân phường Hoàng Văn T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng S).

2. Về con chung: Chị Vũ Thùy L được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trần Vũ Hoàng A đến khi trưởng thành, đủ 18 tuổi. Anh Trần Quốc H không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị Vũ Thùy L không yêu cầu. Anh Trần Quốc H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Vũ Thùy L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm để sung Ngân sách Nhà nước. Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị Vũ Thùy L đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0002583 ngày 09/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Vũ Thùy L có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn anh Trần Quốc H vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 27/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về