Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 27/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 27 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 338/2020/TLST- HNGĐ, ngày 17 tháng 12 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2021 giữa:

- Nguyên đơn: Chị Hồ Thị H, sinh năm 1996 - Có mặt Nơi cư trú: Thôn H, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

- Bị đơn: Anh Trương Đắc C, sinh năm 1985 - Có mặt Nơi cư trú: Thôn H, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/12/2020, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Hồ Thị H trình bày: Chị và anh Trương Đắc C kết hôn với nhau vào ngày 19/11/2013, đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện không ai ép buộc. Sau khi kết hôn trong quá trình chung sống do tính tình không hợp, vợ chồng không hiểu nhau không có tiếng nói chung trong gia đình, cộng thêm việc anh C thường xuyên bị tác động từ bên ngoài từ phía người thân và bạn bè nên thường hiểu sai về chị và đó cũng là nguyên nhân khiến hai vợ chồng thường xuyên căng thẳng, cãi vả và có những lúc chồng đã đánh đập chị. Mặc dù vợ chồng đã ngồi lại nói chuyện với nhau và được gia đình khuyên bàn nhưng không giải quyết được nguyên nhân mâu thuẫn đó. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 7/2019 đến nay.

Nay chị xét thấy không còn tình cảm với anh C nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trương Đắc C.

1 Về con chung: Chị và anh Trương Đắc C có 02 con chung là cháu Trương Đắc Anh Đ, sinh ngày 23/11/2013 và cháu Trương Thị Thu H, sinh ngày 24/10/2015, hiện nay đang sống với hai vợ chồng. Vợ chồng không ai có con riêng, không ai có con nuôi. Ly hôn với anh Cầu chị có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi cháu Trương Thị Thu H và không yêu cầu anh Cầu cấp dưỡng nuôi con. Đề nghị giao cháu Trương Đắc Anh Đ cho anh Cầu trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai ghi ngày 18/12/2020, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn anh Trương Đắc Cầu trình bày: Anh và chị Hồ Thị H kết hôn với nhau vào ngày 19/11/2013, đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện không ai ép buộc. Sau khi kết hôn do hai vợ chồng không hợp tính nhau nên thường xuyên cãi vã có những lúc nóng tính anh đã đánh chị H, nhưng anh xét thấy nguyên nhân mâu thuẫn chưa đến mức phải ly hôn.

Nay chị H viết đơn xin ly hôn thì anh không đồng ý vì anh đang còn tình cảm với chị H muốn vợ chồng trở về đoàn tụ với nhau để nuôi dạy con cái trưởng thành.

Về con chung: Anh và chị Hồ Thị H có 02 con chung như chị H trình bày về họ tên, ngày tháng năm sinh của các con; hiện nay cháu Đức đang sống với anh còn cháu Hiền đang sống với chị H. Vợ chồng không có con nuôi, không ai có con riêng. Nếu phải ly hôn với chị H, anh có nguyện vọng xin được nuôi con chung là Trương Đắc Anh Đ và đề nghị giao cháu Trương Thị Thu H cho chị H nuôi dưỡng và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kết quả xác minh tại UBND xã Q: Bà Hồ Thị Thùy Linh – Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ xã cho biết chị Hồ Thị H và anh Trương Đắc C có đăng ký kết hôn tại UBND xã Quỳnh Nghĩa. Sau khi kết hôn tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh Cầu như thế nào thì địa phương không nắm được do không thông qua hòa giải tại địa phương. Chị H và anh C đều là lao động tự do nên địa phương cũng không biết được thu nhập hàng tháng như thế nào. Nay chị H yêu cầu ly hôn với anh C đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa; Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định pháp luật tố tụng.

Đối với nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 51, 56, 81,82,83, Luật Hôn nhân và gia đình;

Đề nghị tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hồ Thị H.

+ Về tình cảm: Cho chị Hồ Thị H được ly hôn anh Trương Đắc C.

+ Về con chung: Công nhận sự thoả thuận của anh Cầu và chị H.

Giao con chung là Trương Thị Thu H, sinh ngày 24/10/2015 cho chị Hồ Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Giao con chung là Trương Đắc Anh Đ, sinh ngày 23/11/2013 cho anh Trương Đắc Cầu trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho chị Hồ Thị H và anh Trương Đắc C vì không ai yêu cầu.

+ Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

+ Về án phí: Áp dụng Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/02016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu có thẩm quyền giải quyết yêu cầu khởi kiện của chị Hồ Thị H.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Hồ Thị H và anh Trương Đắc C là hợp pháp, tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn. Qua quá trình xác minh, thu thập chứng cứ thể hiện trong quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng tình cảm bình thường, sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách không hợp nhau, mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng và sống ly thân từ tháng 7/2019 đến nay. Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tiến hành hoà giải cho vợ chồng đoàn tụ nhưng không có kết quả. Chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh C ngày càng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Hồ Thị H ; cho chị H được ly hôn với anh C.

[3] Về con chung: Chị H và anh Cầu có 02 con chung là Trương Đắc Anh Đ, sinh ngày 23/11/2013 và Trương Thị Thu H, sinh ngày 24/10/2015. Vợ chồng không ai có con nuôi, không ai có con riêng.

Quá trình giải quyết và tại phiên tòa chị H có nguyện vọng nuôi con chung Trương Thị Thu H, sinh ngày 24/10/2015 vì cháu đang nhỏ cần sự quan tâm chăm sóc của người mẹ, đề nghị giao cháu Trương Đắc Anh Đ, sinh ngày 23/11/2013 cho anh Cầu nuôi dưỡng và không yêu cầu anh Cầu cấp dưỡng nuôi con.

Cháu Trương Đắc Anh Đ trình bày nguyện vọng xin được ở với bố (anh C).

Quá trình hòa giải, giải quyết vụ án anh Cầu có nguyện vọng được nuôi con chung Trương Đắc Anh Đ, không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Vì vậy cần giao con chung Trương Thị Thu H, sinh ngày 24/10/2015 cho chị H trực tiếp trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Giao con chung Trương Đắc Anh Đ, sinh ngày 23/11/2013 cho anh Cầu trực tiếp trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Do đó, cần công nhận sự thoả thuận về việc nuôi con giữa chị H và anh C.

Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Cầu và chị H vì không ai yêu cầu.

Anh Trương Đắc C và chị Hồ Thị H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[4] Về quan hệ tài sản: Chị Hồ Thị H và anh Trương Đắc C đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Hồ Thị H phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 35, Điều 147 BLTTDS; Điều 51, 56, 81,82,83,84 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hồ Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Hồ Thị H được ly hôn anh Trương Đắc C.

2. Về con chung: Công nhận sự thoả thuận của chị H và anh Cầu.

Giao con chung Trương Thị Thu H, sinh ngày 24/10/2015 cho chị H trực tiếp trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Giao con chung Trương Đắc Anh Đ, sinh ngày 23/11/2013 cho anh C trực tiếp trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Cầu và chị H vì không ai yêu cầu.

Chị Hồ Thị H và anh Trương Đắc C có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về án phí: Chị Hồ Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003948 ngày 17 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 27/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về