Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 26/01/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 26 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 279/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2020, về việc tranh chấp về ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2020 và Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử số: 13/TB-TA ngày 29 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Phương K, sinh năm: 1986.

Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hoài T, sinh năm: 1984.

Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 04 tháng 9 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Chị Lê Thị Phương K trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh T chung sống với nhau từ năm 2004 và có đăng ký kết hôn ngày 19-4-2005 tại Ủy ban nhân dân xã Lợi Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Chị và anh T chung sống với nhau không có hạnh phúc do anh T thường xuyên uống rượu về chửi mắng đánh đập chị và các con, chị có báo chính quyền địa phương, địa phương mời lên hòa giải cho vợ chồng hàn gắn đoàn tụ. Ngoài ra, Công an xã An Thạnh nhiều lần mời anh T lên nhắc nhở nhưng anh T vẫn không thay đổi. Đến tháng 8-2020 chị bỏ về nhà mẹ ruột sống và ly thân từ đó cho đến nay. Trong thời gian ly thân anh T có đến nhà xin hàn gắn đoàn tụ nhưng chị không đồng ý nên anh T dùng lời lẽ thô tục chửi chị. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng nên chị yêu cầu ly hôn với Anh Nguyễn Hoài T.

- Về con chung: Chị và anh T có hai người con chung tên Nguyễn Thị Hoài N, sinh ngày 12-11-2004 (nữ), Nguyễn Thị Tường V, sinh ngày 06 tháng 11 năm 2009 (nữ). Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi hai người con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

Bị đơn Anh Nguyễn Hoài T trình bày:

- Về hôn nhân: Chị K trình bày cơ sở hôn nhân giữa anh và chị K như trên là đúng. Anh và chị K chung sống hạnh phúc đến tháng 8 -2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh nghi ngờ chị K có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác nên khi anh uống rượu về có đánh chị K khoảng 2, 3 lần nhưng không gây thương tích gì nặng. Chính quyền địa phương có mời anh làm việc nhắc nhở nhưng không phạt vi phạm hành chính đối với anh. Sau đó, chị K bỏ về nhà mẹ ruột sống và ly thân với anh từ tháng 8 - 2020 cho đến nay. Trong thời gian ly thân anh có đến nhà gặp chị K để hòa giải hàn gắn, đoàn tụ gia đình nhưng chị K không đồng ý. Nay anh vẫn còn thương vợ, con nên anh không đồng ý ly hôn, yêu cầu được đoàn tụ.

- Về con chung: Anh và chị K có hai người con chung tên Nguyễn Thị Hoài N, sinh ngày 12-11-2004 (nữ), Nguyễn Thị Tường V, sinh ngày 06 tháng 11 năm 2009 (nữ). Hiện con chung đang sống chung với chị K. Anh tôn trọng ý kiến của các con, con muốn theo ai thì người đó nuôi. Anh không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Anh trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu tham gia phiên Tòa trình bày:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử: Thẩm phán, thư ký thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, việc thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu chưa thấy vấn đề vi phạm tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử theo quy định.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Lê Thị Phương K, cho chị K được ly hôn với Anh Nguyễn Hoài T. Về con chung: Áp dụng Điều 58, Điều 71, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 giao cháu Nguyễn Thị Hoài N, sinh ngày 12-11- 2004 (nữ) và cháu Nguyễn Thị Tường V, sinh ngày 06 tháng 11 năm 2009 (nữ) cho chị K tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, ghi nhận chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Chị Lê Thị Phương K và Anh Nguyễn Hoài T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Chị Lê Thị Phương K và Anh Nguyễn Hoài T trình bày không có nên không đặt ra giải quyết. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị K phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Lê Thị Phương K và Anh Nguyễn Hoài T tự tìm hiểu và tự nguyện đi đến hôn nhân từ năm 2004 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Lợi Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh vào ngày 19 tháng 4 năm 2005 nên hôn nhân của chị K và anh T là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Theo đơn khởi kiện chị K trình bày vợ chồng chung sống không có hạnh phúc do anh T thường xuyên uống rượu về chửi mắng đánh đập chị và các con. Chính quyền địa phương mời anh T nhắc nhở nhiều lần nhưng anh T vẫn không thay đổi, anh vẫn thường xuyên uống rượu về đánh chị nên chị yêu cầu được ly hôn với anh T. Tại biên bản lấy lời khai ngày 02 tháng 12 năm 2020, anh T cũng thừa nhận do anh nghi ngờ chị K có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác nên anh uống rượu về có đánh chị K và Công an xã có mời lên nhắc nhở. Quá trình xác minh cho thấy, việc chị K và anh T thường xuyên gây gỗ nhau và có vài lần anh T còn đánh chị K và các con là có thật, hiện tại cả hai anh chị đã sống ly thân từ tháng 8-2020 cho đến nay. Trong thời gian ly thân cả hai cũng không có giải pháp khắc phục hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị K, cho chị K được ly hôn với anh T là phù hợp.

[2] Về con chung: Chị Lê Thị Phương K và Anh Nguyễn Hoài T có 02 con chung tên cháu Nguyễn Thị Hoài N, sinh ngày 12-11-2004 (nữ) và cháu Nguyễn Thị Tường V, sinh ngày 06 tháng 11 năm 2009 (nữ). Hiện các con đang sống chung với chị K. Nay ly hôn chị K yêu cầu được nuôi con chung, anh T yêu cầu theo nguyện vọng của các con. Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu Ngọc, cháu Vi hiện đang sống chung với chị K ổn định. Mặt khác, cháu Ngọc và cháu Vi đã trên 7 tuổi, qua làm việc 02 cháu có nguyện vọng muốn được sống chung với chị K. Do vậy, cần giao 02 cháu Ngọc, cháu Vi cho chị K tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về việc cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn, chị K không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con. Dù Hội đồng xét xử đã giải thích quyền và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn cho chị K nghe nhưng chị vẫn giữ nguyên ý kiến không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung do vậy nên ghi nhận.

Anh Nguyễn Hoài T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[3] Về tài sản chung: Chị Lê Thị Phương K và Anh Nguyễn Hoài T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về nợ chung: Chị Lê Thị Phương K và Anh Nguyễn Hoài T trình bày không có nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Lê Thị Phương K phải chịu tiền án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Chị Lê Thị Phương K với Anh Nguyễn Hoài T.

Chị Lê Thị Phương K được ly hôn với Anh Nguyễn Hoài T.

2. Về con chung: Giao 02 cháu Nguyễn Thị Hoài N, sinh ngày 12-11-2004 (nữ) và cháu Nguyễn Thị Tường V, sinh ngày 06 tháng 11 năm 2009 (nữ) cho chị K tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Nguyễn Hoài T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị K không yêu cầu.

Anh Nguyễn Hoài T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Lê Thị Phương K và Anh Nguyễn Hoài T thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Lê Thị Phương K và Anh Nguyễn Hoài T trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

5. Về án phí: Chị Lê Thị Phương K phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí hôn nhân sơ thẩm. Được khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị K đã nộp 300.000 đồng, theo biên lai thu số 0014428 ngày 09 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Chị K đã nộp xong tiền án phí hôn nhân sơ thẩm.

Anh Nguyễn Hoài T không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Chị K, anh T có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 26/01/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về