Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KHÁNH VĨNH – TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa xét xử công khai vụ án Hôn nhân – gia đình sơ thẩm thụ lý số: 75/2020/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXX-ST ngày 23 tháng 3 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 03/2021/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Cao Thị Y, sinh năm 1995, có mặt. Địa chỉ: Thôn SL, xã K, huyện K, tỉnh Khánh Hòa.

2. Bị đơn: Ông Cao Văn T, sinh năm 1993, vắng mặt. Địa chỉ: Thôn SL, xã K, huyện K, tỉnh Khánh Hòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 30/9/2020, bản tự khai ngày 19/10/2020 và lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn bà Cao Thị Y trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Cao Văn T kết hôn năm 2011 đến năm 2015 đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã K. Sau khi kết hôn ông bà chung sống tại thôn SL, xã K, huyện K và có 02 con chung tên Cao Văn T, sinh ngày 20/10/2012 và Cao Minh L, sinh ngày 26/11/2017. Quá trình sống chung giữa bà và ông T thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do ông T thường xuyên ăn nhậu về nhà tìm cớ gây sự đánh đập bà và phá đồ đạc trong gia đình. Bà đã nhiều lần bỏ qua cho ông cơ hội sửa chữa để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con nhưng ông T vẫn không thay đổi. Do đó, từ giữa năm 2020, bà và ông T không còn sống chung với nhau cho đến nay. Nay bà yêu cầu được ly hôn với ông Cao Văn T. Về con chung, bà Y yêu cầu được trực tiếp nuôi cả hai con chung đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung bà Y khai không có nên không yêu cầu tòa án giải quyết Tại biên bản lấy lời khai ngày 22/10/2020 và trong quá trình xét xử, bị đơn ông Cao Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Cao Văn T thống nhất với lời trình bày của bà Cao Thị Y về thời điểm kết hôn và con chung. Ông khai trong quá trình chung sống do vợ chồng không hợp nhau nên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung trong công việc gia đình. Do mỗi lần ông đi nhậu về bà Y hay nói nên vợ chồng mới xảy ra tranh cãi qua lại. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nên ông mong bà Y suy nghĩ lại để vợ chồng đoàn tụ, xây dựng hạnh phúc gia đình, nuôi dạy con cái. Nay bà Y yêu cầu ly hôn ông không đồng ý. Về con chung: Ông T không đồng ý ly hôn nên ông không yêu cầu tòa án giải quyết về con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Ông T xác nhận ông và bà Y không có tài sản chung, nợ chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án là đúng theo quy định. Đối với bị đơn ông Cao Văn T đã được Tòa án triệu tập, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông cố tình trốn tránh không có mặt tại phiên tòa nhằm bảo vệ quyền lợi cho mình do đó tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông T là đúng theo quy định của pháp luật Về thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án đến trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã thực hiện việc thu thập tài liệu chứng cứ theo quy định.

Về nội dung vụ án: Về hôn nhân, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Về con chung: Đề nghị HĐXX giao các con chung Cao Văn T, sinh ngày 20/10/2012 và Cao Minh L, sinh ngày 26/11/2017 cho nguyên đơn bà Cao Thị Y trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành; Về tài sản chung, nợ chung: Bà Cao Thị Y và ông Cao Văn T xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét; Về án phí đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Cao Thị Y và ông Cao Văn T kết hôn năm 2011, có đăng ký kết hôn tại UBND xã K và đã được UBND xã cấp giấy chứng nhận kết hôn số 12/2015, quyển số 01/2015 ngày 12/5/2015. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa bà Y và ông T là hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, giữa bà Y và ông T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm dẫn đến tranh cãi do ông T thiếu trách nhiệm với gia đình, thường xuyên ăn nhậu về nhà gây sự với bà Y. Mặc dù bà Y đã nhiều lần bỏ qua cho ông cơ hội sửa chữa sai lầm để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con nhưng ông T vẫn không thay đổi, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn. Theo kết quả xác minh tại địa phương ông bà đang sinh sống cho thấy quá trình sống chung giữa bà Y và ông T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và hiện tại hai ông bà không còn sống chung với nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án ông T không đồng ý ly hôn với lý do ông còn thương vợ. Tuy nhiên, theo lời khai của ông T, bà Y thì ông bà không còn sống chung với nhau từ năm 2020 cho đến nay. Sau khi bà Y làm đơn ra tòa yêu cầu ly hôn, quá trình giải quyết và hòa giải ông T không đồng ý ly hôn và mong vợ chồng hòa giải đoàn tụ nhưng bản thân ông cũng không có cách khắc phục mâu thuẫn để hàn gắn tình cảm vợ chồng, tình trạng hôn nhân vẫn không cải thiện được, ông bà vẫn sống ly thân. Hội đồng xét xử xét thấy, xuất phát từ bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến mâu thuẫn làm cho tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, việc chăm sóc, quan tâm lẫn nhau không còn, do đó mâu thuẫn giữa bà Y và ông T đã đến mức trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài, thực tế hai ông bà cũng không còn sống chung từ giữa năm 2020 cho đến nay. Vì vậy có duy trì quan hệ hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai và mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Cao Thị Y đối với ông Cao Văn T.

[2] Về con chung: Bà Cao Thị Y và ông Cao Văn T có 02 con chung Cao Văn T, sinh ngày 20/10/2012 và Cao Minh L, sinh ngày 26/11/2017. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà Cao Thị Y yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành. Bà Y không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Kể từ thời điểm bà Y và ông T không còn sống chung, các con chung đang do bà Y trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, sau khi ly hôn việc giao con chưa thành niên cho người nào nuôi dưỡng, giáo dục là nhằm mục đích giúp con chưa thành niên phát triển tốt cả về tinh thần lẫn thể chất. Nguyên đơn có đủ điều kiện nuôi con và thực tế đang trực tiếp nuôi con chung, cháu T có nguyện vọng xin được ở với mẹ là bà Cao Thị Y. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con chung, theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao các cháu Cao Văn T, sinh ngày 20/10/2012 và Cao Minh L, sinh ngày 26/11/2017 cho bà Cao Thị Y trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Trong quá trình nuôi con nếu gặp khó khăn bà Y có quyền làm đơn yêu cầu cấp dưỡng nuôi con hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con để đảm bảo quyền lợi cho con chung.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Cao Thị Y và ông Cao Văn T xác nhận không có nên HĐXX không xét.

[4] Về án phí: Bà Cao Thị Y được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho bà Cao Thị Y được ly hôn với ông Cao Văn T.

2. Về con chung: Giao hai con chung Cao Văn T, sinh ngày 20/10/2012 và Cao Minh L, sinh ngày 26/11/2017 cho bà Cao Thị Y trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Bà Cao Thị Y không yêu cầu ông Cao Văn T cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn vì quyền lợi của con, các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con; người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Cao Thị Y và ông Cao Văn T xác nhận không có nên HĐXX không xét.

4. Về án phí: Bà Cao Thị Y được miễn án phí theo quy định pháp luật.

Quyền kháng cáo: Bà Cao Thị Y có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ông Cao Văn T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Khánh Vĩnh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về